Đề tài: AN-NE
NGƯỜI PHỤ NỮ YÊN LẶNG VÀ SỰ CẦU NGUYỆN
Kinh-thánh:
I Sa-mu-ên 1:1-28
Lời
chào mừng:
NHẬP ĐỀ:
Thưa
Hội-thánh!
Người
Việt Nam
chúng ta thường có câu: “Ngọc nhìn lâu sẽ
tìm thấy vết. Hoa để gần sẽ hết mùi hương”. Khi hai người lúc mới yêu nhau
thì lúc nào cũng chỉ thấy cái đẹp của nhau, cái mùi thơm của nhau, chỉ thấy
cuộc sống là màu hồng. Nhưng khi về sống chung với nhau một thời gian thì sẽ
thấy cái đẹp đó biến đi đâu mất hết.
Dù
vợ hoặc chồng có đẹp đến mấy nhưng khi sống lâu sẽ thấy được họ cũng có rất
nhiều những vết và khiếm khuyết. Trong thực tế cho thấy cuộc sống gia đình không
phải lúc nào cũng bình ổn, hay phẳng lặng cả.
Trong
phân đoạn Kinh-thánh mà sáng nay quý ông bà anh chị vừa đọc cho chúng ta thấy
một gia đình cũng xảy ra rất nhiều những hiềm khích và mâu thuẫn đó là gia đình
nhà Ên-ca-na.
THÂN BÀI:
Nương vào lời Chúa, tôi sẽ chia sẻ với Hội Thánh 3 ý
chính sau đây: (1) AN-NE YÊN LẶNG ĐỂ TÌM SỰ YÊN ỦI NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI ( 2) ĐỨC
CHÚA TRỜI ĐÁP LỜI VƯỢT QUÁ SỰ CẦU NGUYỆN CỦA AN-NE ( 3) AN-NE NGƯỜI MẸ TRẢ SỰ
HỨA NGUYỆN
Bây giờ, xin mời quý ông bà anh chị em cùng học phần
thứ nhất:
I. AN-NE YÊN LẶNG ĐỂ TÌM SỰ YÊN ỦI NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong chương 1 câu1- 2 Lời Chúa cho chúng ta biết: Gia
đình nhà ông Ên-ca-na sống tại miền quê đồi núi Ép-ra-im. Đây là một nơi cách nơi thờ phượng Chúa là thành Si-lô
khoảng hơn 30 km.
“ Ên-ca-na có
hai vợ, người nầy tên là An-ne, và người kia tên là Phê-ni-na. Phê-ni-na có
con, còn An-ne không có.”
Ên-ca-na là một người tốt và tin kính Chúa ngoại trừ
chi tiết ông có hai vợ. Và chúng ta không biết tại sao ông lại có hai vợ. Nhưng
dựa theo bối cảnh bản văn thì chúng ta được biết rằng: Có lẽ vì do bà An-ne là
vợ đầu không có con, lên ông đã cưới Phê-ni-na để có con nối dõi tông đường.
Và đây cũng chính là vấn nạn và nan đề đã xảy ra biết
bao những hiềm khích, mâu thuẫn, ghen tỵ và đố kỵ trong gia đình nhỏ này.
Lời Chúa trong câu 3-6 tác giả cho chúng ta biết: “Mỗi năm, Ên-ca-na ở thành mình đi lên Si-lô
đặng thờ phượng Đức Giê-hô-va vạn quân, và dâng của tế lễ cho Ngài; tại Si-lô
có hai con trai của Hê-li, là Hóp-ni và Phi-nê-a, thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va.
4 Đến ngày
Ên-ca-na dâng tế lễ, thì chia của lễ ra từng phần ban cho Phê-ni-na, vợ mình,
và cho các con trai và con gái mình. 5 Nhưng người lại ban cho An-ne một phần
bằng hai, vì người thương nàng, dẫu rằng Đức Giê-hô-va khiến cho nàng son sẻ. 6
Kẻ phân bì nàng khôn xiết trêu ghẹo nàng, để giục nàng lằm bằm vì Đức Giê-hô-va
đã khiến nàng son sẻ. 7 Từ năm nầy đến năm kia, mỗi khi nàng đi lên đền Đức
Giê-hô-va, chồng đãi nàng như vậy, còn Phê-ni-na cứ trêu ghẹo nàng; An-ne khóc
và không ăn.”
Thưa
quý vị!
Có
bao giờ, quý vị đi thờ phượng Chúa mà bị người nào đó trêu trọc, và hạ nhục
chưa? Thường một người xa lạ mà trêu chọc, đâm bị thóc, chọc bị gạo cũng là
việc rất khó chịu rồi huống hồ đây là một người sống cùng nhà, ăn cùng mâm thì
lại càng đau khổ biết dường bao.
Nếu
chúng ta hỏi bà An-ne thì bà sẽ nói cho chúng ta biết bà thường bị như vậy dù ở
nhà hoặc khi lúc khi lên đền thờ.
Ở
nhà thì Phê-ni-na cứ tìm đủ mọi cách để trêu chọc, trọc tức và hạ nhục bà
An-ne. Nhưng Phê-ni-na cũng làm những điều đó ngay cả trong những ngày đi thờ
phượng Chúa nữa kia.
Mặc
dầu đi trên đường để đến Si-lô để thờ phượng Ngài mà Phê-ni-na vẫn cứ giữ cái
bản chất ganh ghét, đố kỵ, chêu trọc và hạ nhục An-ne. Mặc dầu trong những ngày
ở tại Si-lô dâng của lễ và thờ phượng Chúa như vậy mà Phê-ni-na bản chất vẫn
không có gì là thay đổi cả.
Phê-ni-na
là hình ảnh của một Cơ Đốc nhân không được tái sanh, nối sống, lời nói, và tấm
lòng đầy dẫy những ác ý, tranh cạnh, ghen ghét, thóa mạ, làm nhục người khác.
Mặc
dầu có đi lên đền thờ đó, có dâng của lễ đó, nhưng đời sống vẫn chẳng có gì
thay đổi, mặc dầu có dâng của lễ nhưng đời sống bà chẳng phải là một của lễ tốt
cho Chúa.
Ngày
nay, nhìn vào Hội Thánh hay chính mình chúng ta, chúng ta cũng nhìn thấy chính
mình có những lúc chính chúng ta là những Phê-ni-na. Mặc dầu tôi mang danh là con cái
Chúa đấy nhưng chẳng có Chúa ở đâu trong đời sống mình hết.
Trong
tất cả những lời thóa mạ, trêu chọc và hạ nhục của Phê-ni-na, An-ne vẫn cho
thấy phẩm chất của bà cao đẹp. Gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bùn.
Chúng
ta thấy trong suốt bối cảnh của đoạn Kinh-thánh thì bà An-ne không thấy bà nói một
lời nói trả đủa nào đối với Phê-ni-na cả.
An-ne
đã không ăn miếng trả miếng, không lấy rủa sả trả rủa sả. Trong mọi việc bà giữ
tấm lòng yên lặng trước mặt Đức Chúa Trời.
Tên “An-ne” có nghĩa là “người nữ hiền lành”, và bà đã
sống đúng với cái tên ấy trong cách đối diện với tình
trạng son sẻ của mình cũng như đối với thái độ và lời lẽ cay độc của Phê-ni-na.
Việc không có con là một nỗi khổ lớn nhưng
bà An-ne còn khổ tâm hơn vì luôn luôn bị Phê-ni-na đem chuyện không con ra trêu
chọc, chế giễu.
Trong câu 5 tác giả cho chúng ta biết: “ bà An-ne được chồng rất yêu thương, rồi
xuống câu 8 chúng ta thấy sự quan tâm rất sâu sắc của ông Ên-ca-na đối với bà
An-ne: “Ên-ca-na, chồng nàng, nói rằng: Hỡi An-ne, sao nàng khóc? Cớ sao không
ăn và lòng buồn bực dường ấy? Ta há chẳng đáng cho nàng hơn mười đứa con trai
ư?”
Mặc dầu, bà An-ne được chồng yêu thương
nhiều hơn, quan tâm và chia sẻ, cảm thông với bà xong chúng ta không hề thấy bà
An-ne đi kể chuyện xấu và lời nói độc địa của Phê-ni-na cho chồng mình nghe.
Bà giữ im lặng, bà không hề kể với chồng của
mình. Bà giữ yên lặng không kể chuyện xấu của Phê-ni-na cho chồng điều đó cũng
dạy cho tất cả mỗi chúng ta một bài học rất quý giá trên bước đường theo Chúa.
“
Yên lặng trong lúc bị trêu trọc là rất quý giá, yên lặng trong lúc bị hạ nhục
là vàng”.
Đôi khi nói ra cũng không phải là điều
tốt, mặc dầu điều chúng ta nói có thể không sai. Nhưng giữ thái độ yên lặng
trước những lời thóa mạ, nhục mạ của người khác là khôn ngoan.
Minh họa: Người ta đã vẻ một bức hình hằng
ngày con cái của Phê-ni-na ngồi ăn vui vẻ quây quần bên mâm cơm bên cạnh có kẻ
hầu người hạ. Trong bức tranh ánh mắt khinh bỉ và điệu cười châm biếm của
Phê-ni-na. Điều đó đã khiến cho bà An-ne ngậm ngùi quay mặt và lấy tay gặt nước
mắt đi.
Không hề trả đũa, không hề một lời ra khỏi
miệng.

Minh họa: Khi Chúa Giê-xu bị người ta chế
diễu, đánh đập và nhục mã, Ngài đã giữ thái độ như chiên câm đứng trước mặt kẻ
hớt lông.
Tiên tri Ê-sai đã nói về thái độ của Ngài
rằng: Ngài chẳng hề mở miệng đến nỗi một lời lành cũng không.
Bà An-ne không kể chuyện xấu của Phê-ni-na
cho chồng mình điều đó cũng dạy cho chúng ta biết. Bà thay vì tìm sự yên ủi và
bảo vệ từ người chồng của mình thì bà đã trải lòng trước mặt Chúa qua sự cầu
nguyện để tìm sự yên ủi của Đức Chúa Trời.
Thay vì bà mong chồng đứng ra xét lẽ công
bình cho mình thì bà đã trao phó mọi trăn trở, u sầu, buồn tủi của mình cho Đức
Chúa Trời để Đức Chúa Trời xét lẽ công bình cho bà.
Minh họa: Nếu chúng ta bị ai đó hạ nhục,
xúc phạm thì thường tìm đến một người nào đó yêu thương chúng ta để tìm sự ủng
hộ và bênh vực của người đó cho mình.
Nhưng khi mình chạy đến với con người tức
là mình hoàn toàn chưa chạy đến với Đức Chúa Trời.
Con người chúng ta ở trong xác thịt mà xác
thịt luôn tìm những gì có lợi cho bản thân chứ không chịu yên lặng, hy sinh và
vì người khác.
Lời Chúa trong tiên tri Ê-sai qua ông Chúa
đã phán cho dân sự của Ngài rằng: “Các
ngươi sẽ được rỗi, là tại trở lại và yên nghỉ; các ngươi sẽ được sức mạnh,
là tại yên lặng và trông cậy. Nhưng các ngươi đã không muốn thế! ( Ê
sai 30:15)
Nghe đến tên Ma-ri, chúng ta suy nghĩ đến
một thiếu nữ hiền lành, đạo đức. Ai cũng say mê nhắc nhở Ma-ri với lòng ngưỡng
mộ, tôn kính. Ðức hạnh tuyệt vời đó cũng có trong Giô-sép, nhưng Joseph dường
như bị lãng quên trong câu chuyện Giáng Sinh. Mấy ai làm thơ, viết nhạc ca tụng
con người khiêm tốn, trầm lặng nầy?
Joseph đóng vai phụ, nhỏ bé, tầm thường.
Chúng ta thấy Ma-ri ngồi trên lưng lừa, còn Joseph? Kiên nhẫn cầm dây cương lội
bộ - suốt đoạn đường từ Na-xa-rét đến Bết-lê-hem! Joseph lội bộ đường sa mạc xa
xôi đưa Hài Nhi Jesus và Ma-ri lánh nạn qua Ai-cập (Ma-thi-ơ 2:14). Joseph yên
lặng đứng lùi lại đàng sau trong chuồng lừa khi các mục tử đến tôn thờ Hài Nhi
Thánh.
Anh Chị có biết rằng tên ông không được
nhắc đến khi các vương tử miền đông chiêm ngưỡng và dâng lễ vật (2:11)? Hầu hết
các nhân vật trong câu chuyện Giáng Sinh đều nói. Vua, thầy tế lễ, thầy dạy
luật, mục tử, các nhà bác học nói. Mari nói. Joseph không nói.
Ông làm gì? Ma-thi-ơ 1:24: “Giô-sép làm y
như lời thiên sứ dặn.” Yên lặng, vâng lời, phục vụ. Joseph yên lặng. Yên lặng
là vàng. Yên lặng gây tiếng vang. Quý hơn trăm triệu lời nói văn hoa. Joseph
nói lên lời cao quý qua tâm tình, thái độ và nếp sống của mình.
Joseph không ăn miếng trả miếng, không
giận dữ, thù hận – khi người khác gièm chê, cười cợt, châm biếm, chỉ trích:
“Chưa cưới mà có bầu. Nuôi con ông hàng xóm. Dại, khùng, đồ ngu!” Thái độ yên
lặng của người quân tử, nhẫn nhục, cao thượng. Ma-thi-ơ 1:19 gọi ông là? Người
có nghĩa!
Thái độ của Joseph gây tiếng vang hùng hồn
hơn một vạn lời thơ trống rỗng. Tâm tình kính sợ, vâng phục Chúa của ông thành
khẩn, mãnh liệt hơn những bài ca trong cuộc đời.
II.
ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÁP LỜI VƯỢT QUÁ SỰ CẦU NGUYỆN CỦA AN-NE
An-ne
để lại cho chúng ta một tấm gương tốt về sự cầu nguyện. Lời cầu nguyện của bà
buồn rầu và khốn khổ, nhưng dù cho cảm xúc của bà thế nào, bà đã phơi bày tấm
lòng của mình trước mặt Chúa.
Lời
Chúa trong câu 10 có chép “An-ne lấy làm
sầu khổ trong lòng, vừa cầu khẩn Đức Giê-hô-va, vừa tuôn tràn giọt lệ.”
Đây
là câu Kinh-thánh mô tả tâm trạng và nỗi lòng cùng sự đau khổ của bà An-ne đối
với Đức Chúa Trời.
An-ne
một con người đau khổ đã tìm đến Đức Chúa Trời.
An-ne
một con người đau khổ dốc đổ với Đức Chúa Trời.
An-ne
một con người đau khổ đã được chữa lành bằng sự cầu nguyện.
Trong
bối cảnh của phân đoạn Kinh-thánh này, thì có ba hạng người sống bên cạnh An-ne
nhưng không ai hiểu được nỗi lòng của bà.
1. Ên-ca-na
2. Phê-ni-na
3. Thầy-tế-lễ Hê-li.
Không
ai hiểu được nỗi sầu khổ của bà cả, cũng không ai giải quyết được nỗi sầu khổ của
bà ngoài chính mình Đức Chúa Trời.
Năm
điều cần có trong lời cầu nguyện khi chúng ta thấy trong lời cầu nguyện của
An-ne và đây cũng chính là những điều chúng ta lên có trong lời cầu nguyện mỗi
khi đến với Đức Chúa Trời và mong Ngài đáp lời.
(1)
Tấm lòng
(2)
Cầu khẩn
(3)
Nước mắt
(4)
Khiêm nhường (
con đòi)
(5)
Nếu
hôm nay, chúng ta lấy lời cầu nguyện mẫu của An-ne để soi vào lời cầu nguyện
của chúng ta thì sẽ thấy chúng ta thiếu điều gì trong ba điều ấy.
-
Trước hết, là bà
đã trải lòng ra trước mặt Chúa. Tức là bà không hề dấu diếm điều gì với Chúa
hết, mặc dầu điều đó có thể là không phải là điều tốt đi chăng nữa.
Trong
câu 15 An-ne nói với thầy-tế-lễ Hê-li rằng: “
Tôi giãi bày lòng tôi ra trước mặt Đức-Giê-hô-va.”
Cầu
nguyện là gì là giãi bày lòng mình ra trước mặt Chúa.
Trong
bản dịch khác dịch là: “tôi chỉ thổ lộ
tâm can trước nhan ĐỨC CHÚA. [GKPV]
Tôi chỉ dốc đổ lòng tôi ra trước mặt
CHÚA. [BDM]
Một
loạt các động từ: “ dốc đổ, thổ lộ, giãi bày” là những diễn từ mô tả cái nỗi
lòng sâu thẳm bên trong của bà với Đức Chúa Trời.
Minh
họa: Chúng ta thường đến với Chúa bằng những lời cầu nguyện xáo rỗng bề ngoài
mà thiếu sự dốc đổ, thiếu sự giãi bày, bà thổ lộ trước mặt Chúa phải không?
Tác
giả của Thi-thiên 62: 8 Lời Chúa kêu gọi “Hỡi
bá tánh, khá nhờ cậy nơi Ngài luôn luôn, Hãy dốc đổ sự lòng mình ra tại trước
mặt Ngài.”
An-ne
vừa khóc vừa dốc đổ lòng mình trước mặt Chúa. Theo lời Thánh Kinh ghi, nàng
không cầu nguyện thành lời nhưng chỉ thầm nguyện với tấm lòng khẩn thiết, với
nỗi niềm không thể nói nên lời. Ðây là lời cầu xin tha thiết, từ tấm lòng tan
vỡ chân thành. Khi cầu nguyện, An-ne thật sự tâm giao với Chúa, hướng trọn linh
hồn và tâm thần về Chúa, nàng không để ý đến người chung quanh, cũng không cần
biết người chung quanh nghĩ gì về mình.
-
Thứ hai, bà đã
đối diện với đau khổ bằng sự cầu nguyện.
Dù
đau buồn vì không con nhưng An-ne không tuyệt vọng, nàng không đầu hàng hoàn
cảnh. Trái lại, An-ne tìm thấy hy vọng nơi Ðức Chúa Trời qua lời cầu nguyện.
Trong ngày lên đền thờ, An-ne đã dành thì giờ cầu nguyện với Chúa. Nàng tin
rằng Chúa là Ðấng Tạo Hóa, Ngài có thể
phá bỏ định luật thiên nhiên và ban cho nàng đặc ân làm mẹ. Lời cầu nguyện của
An-ne rất là rõ ràng và chính đáng. Bà không cầu xin Chúa trừng phạt Phê-ni-na
và những người làm khổ mình, cũng không xin Chúa cất đi niềm vui và hạnh phúc
của họ. An-ne chỉ xin một điều, xin Chúa đoái xem nỗi sầu khổ của nàng và ban
cho nàng một đứa con trai.
-
Thứ ba, bà đã cầu
nguyện trong nước mắt.
Nước
mắt đối với người đời chỉ như giọt nước rơi vô ích. Nhưng đối với Đức Chúa Trời
thì nó không vô ích bao giờ.
Trong
Kinh-thánh nói đến rất nhiều nước mắt. Nhưng một trong những câu Kinh-thánh nỗi
tiếng đó là Thi-thiên 6:8 “Hỡi kẻ làm ác
kia, khá lìa xa ta hết thảy; Vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng khóc lóc ta.”
“Chúa đếm những bước tha hương của tôi!
Xin Chúa để nước mắt tôi trong ve của Chúa, Nước mắt tôi chẳng được ghi vào sổ
Chúa sao” (Thi Thiên 56:8)?
Nước
mắt của bà An-ne là những giọt nước mắt chân thành đến từ một con người đau khổ
và đến từ một tấm lòng trĩu nặng.
Chúng
ta có một gương mẫu vĩ đại mà tác giả thư Hê-bơ-rơ chỉ cho chúng ta: “Khi Đấng
Christ còn trong xác thịt, thì đã kêu lớn tiếng khóc lóc mà dâng những
lời cầu nguyện nài xin cho Đấng có quyền cứu mình khỏi chết, và vì lòng nhân
đức Ngài, nên được nhậm lời.” ( Hê-bơ-rơ 5:7)
Nếu
Thiên Chúa có thể khóc, thì tôi cũng có thể khóc.
Chúng
ta không đau đớn một mình. Chính Chúa Giêsu cũng biết nỗi đau khi khóc than vì
mất người thân. Một trong những trang cảm động nhất Tin mừng, Chúa Giêsu thấy
Maria khóc thương em trai Lazarô vừa chết của mình. Và Chúa Giêsu cũng không
cầm được nước mắt. Ngài xúc động và bắt đầu khóc.
Những
giọt nước mắt của Chúa Giêsu là thuốc giải độc cho sự lãnh đạm của tôi trước
đau khổ của anh chị em mình. Những giọt nước mắt của Ngài dạy tôi biết xem nỗi
đau của người khác là của mình, biết chia sẻ những nản lòng và đau đớn của
những người đang đau khổ.
Những
giọt nước mắt của Chúa Giêsu cho tôi nhận ra sự đau buồn và tuyệt vọng của
những người phải chứng kiến người thân yêu của mình bị bắt đi, những người
không biết tìm đâu sự an ủi. Những giọt nước mắt của Chúa Giêsu cần lời đáp của
những người tin nơi Ngài. Như Ngài hằng an ủi, thì chúng ta cũng được kêu gọi
hãy an ủi.
Tiên
tri Giê-rê-mi được mệnh danh là tiên tri của nước mắt. Khi ông đi rao giảng
Gie 9:1 1 Ôi! Ước gì đầu tôi là suối nước, mắt tôi là nguồn lụy! Hầu cho tôi vì những kẻ bị giết của con
gái dân ta mà khóc suốt ngày đêm.
Ca 1:16 16 Vậy nên ta khóc lóc; mắt ta tuôn nước mắt;
Vì kẻ yên ủi làm tỉnh hồn ta thì đã xa ta.
Con cái ta bị đơn chiếc, vì kẻ thù đã thắng trận.
Vì kẻ yên ủi làm tỉnh hồn ta thì đã xa ta.
Con cái ta bị đơn chiếc, vì kẻ thù đã thắng trận.
Ca 2:11 11 Mắt ta hao mòn vì chảy nước mắt,
lòng ta bối rối;
Gan ta đổ trên đất, vì sự hủy diệt con gái dân ta.
Vì con trẻ và các con đương bú, ngất đi nơi các đường phố trong thành.
Gan ta đổ trên đất, vì sự hủy diệt con gái dân ta.
Vì con trẻ và các con đương bú, ngất đi nơi các đường phố trong thành.
Ca 2:18 18 Lòng dân ngươi kêu van đến Chúa.
Hỡi tường thành con gái Si-ôn, hãy cho nước mắt ngươi ngày đêm chảy như sông!
Đừng cho nghỉ ngơi; con ngươi mắt ngươi chẳng thôi.
Hỡi tường thành con gái Si-ôn, hãy cho nước mắt ngươi ngày đêm chảy như sông!
Đừng cho nghỉ ngơi; con ngươi mắt ngươi chẳng thôi.
- Thứ
tư, bà đã cầu nguyện trong sự khiêm nhường.
Bà
đến với Chúa xưng hô với Chúa: Bà sử dụng chữ “ con đòi”
Khiêm
nhường: Kế đến, bà An-ne bày tỏ thái độ khiêm nhường trong khi cầu nguyện “ bà
đã tự xem mình là con đòi Ngài” động từ
“ con đòi hay nữ tỳ” Từ Hán Việt có nghĩa là Đầy tớ gái, hay là nghĩa là kẻ hèn
mọn.
Ý muốn nói lên bà chỉ là kẻ hèn mọn cần được Chúa thương xót, bà
không cho là bà xứng đáng được nhận, nhưng tùy vào lòng nhân từ và sự thương xót của Chúa.
Đây là một thái độ khiên nhường của một người khi cầu nguyện:
Minh họa: Trong
Phúc-âm Luca 18 Chúa Giê-xu có kể một ví dụ về hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một người Pha-ri-si và
một người thâu thuế.
“Người
Pha-ri-si đứng cầu nguyện thầm như vầy: Lạy Đức Chúa Trời, tôi tạ ơn Ngài,
vì tôi không phải như người khác, tham lam, bất nghĩa, gian dâm, cũng không phải như người thâu
thuế nầy. 12 Tôi
kiêng ăn một tuần lễ hai lần, và nộp một phần mười về mọi món lợi của tôi. 13 Người thâu
thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà rằng: Lạy Đức Chúa
Trời, xin thương xót lấy tôi, vì tôi là kẻ có tội! 14 Ta
nói cùng các ngươi, người nầy trở về nhà
mình, được xưng công bình hơn người kia;
vì ai tự nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên.”
Người Pha-ri-si chạy đến với Chúa cầu nguyện để kể ra những việc làm đạo đức, công danh, sự nghiệp đóng góp cho
nhà Chúa, tự đắc ý và hãnh diện vào những việc làm công bình riêng của mình.
Còn người thâu thuế thì đứng xa xa, không
dám ngước mắt lên trời, đám ngực cầu nguyện “Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót lấy tôi, vì tôi là kẻ có tội!”
Có những người cầu nguyện dài nhưng lại cầu nguyện theo kiểu của người Pha-ri-si nhưng có những người cầu nguyện ngắn nhưng lại là lời cầu nguyện được Chúa đẹp lòng nhận lời.
Người thâu thuế cầu nguyện rằng: Xin thương xót lấy tôi, vì tôi
là kẻ có tội, tôi không xứng đáng, tôi không phải là người công bình,
tôi không là gì hết.
Có nhiều khi chúng ta
đến với Chúa mà cứ như thể chúng ta ra lệnh cho Chúa: Phải thành cái này, phải được cái kia, mà thiếu đi tấm lòng của một con đòi, thiếu đi sự khiêm nhường của một nữ tỳ. Tôi và quý
vị không có gì xứng đáng trước mặt Chúa đâu, dầu chúng ta làm nhiều việc cho Chúa đi chăng nữa thì chúng ta
cũng chẳng khác chi con đòi hoặc nữ tỳ mà thôi. Việc Chúa đáp lời, nhận lời cầu nguyện của chúng ta cũng
chỉ vì Chúa thương xót, đoái đến mà thôi.
-
Thứ năm, bà cầu nguyện
Quý
vị có đang gặp phải nỗi sầu khổ nào không? Quý vị sẽ đối diện với những điều đó
như thế nào?
Có
phải quý vị lằm bằm, chán nản, thật vọng và bỏ cuộc không? Đứng trước một nan
đề rất lớn là bị son sẻ không con, người người châm biếm, mỉa mai. Nhưng An-ne
đã không chịu khuất phục bà đã thể hiện vài trò của một người nữ đầy đức tin đó
là chạy đến với Đức Chúa Trời.
III.
AN-NE NGƯỜI MẸ TRẢ SỰ HỨA NGUYỆN

Từ
núi Ép-ra-im đến Si-lô là một đoạn đường dài hơn 30 km, chuyến đi bộ kéo dài
một hoặc hai ngày. Trong chuyến đi ấy mặc dù An-ne biết sẽ bị tình địch là
Phê-ni-na đối xử tệ bạc xong bà vẫn cứ đi.
Trong
cuộc đời theo Chúa của chúng ta cũng có rất nhiều Phê-ni-na ngăn trở chúng ta
để không có thể đi lên thờ phượng Chúa được. Nhiều lần Ma-quỷ đã đặt Phê-ni-na
trong bước đường chúng ta đi thờ phượng Chúa.
Đó
có thể là chồng vợ, con cái, công ăn việc làm, hoặc một biến cố hoặc lời nói
nào đó khiến chúng ta chán nản, ngã lòng bỏ cuộc không tiếp tục đi lên thờ
phượng Chúa nữa.
Minh
họa: Pha-ra-ôn rất thâm độc và đầy sự khôn khéo đã đặt những Phê-ni-na để ngăn
trở tuyển dân của Chúa không đi lên thờ phượng và dâng của lễ cho Chúa được.
Nó
bắt đóng gạch, nhưng phải tự đốt bằng rơm, nó cho đàn ông đi mà không cho đàn
bà và con nít đi. Nó cho đàn bà con nít đi xong không cho bò lừa đi.
Pha-ra-ôn
đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên vào đồng vắng.
“Vả,
khi Pha-ra-ôn đến gần, dân Y-sơ-ra-ên ngước mắt lên, thấy dân Ê-díp-tô đuổi
theo, bèn lấy làm hãi hùng, kêu van Đức Giê-hô-va. 11 Chúng lại nói cùng Môi-se
rằng: Xứ Ê-díp-tô há chẳng có nơi mộ phần, nên nỗi người mới dẫn chúng tôi vào
đồng vắng đặng chết sao? Người đưa chúng tôi ra xứ Ê-díp-tô để làm chi? 12
Chúng tôi há chẳng có nói cùng người tại xứ Ê-díp-tô rằng: Để mặc chúng tôi
phục dịch dân Ê-díp-tô, vì thà rằng phục dịch họ còn hơn phải chết nơi đồng
vắng? 13 Môi-se đáp cùng dân sự rằng: Chớ sợ chi, hãy ở đó, rồi ngày nay xem sự
giải cứu Đức Giê-hô-va sẽ làm cho các ngươi; vì người Ê-díp-tô mà các ngươi ngó
thấy ngày nay, thì chẳng bao giờ ngó thấy nữa. 14 Đức Giê-hô-va sẽ chiến cự
cho, còn các ngươi cứ yên lặng.”
Lời cầu nguyện của An-ne
Dù đau buồn vì không con nhưng An-ne không
tuyệt vọng, nàng không đầu hàng hoàn cảnh. Trái lại, An-ne tìm thấy hy vọng nơi
Ðức Chúa Trời qua lời cầu nguyện. Trong ngày lên đền thờ, An-ne đã dành thì giờ
cầu nguyện với Chúa. Nàng tin rằng Chúa là Ðấng Tạo Hóa, Ngài có thể phá
bỏ định luật thiên nhiên và ban cho nàng đặc ân làm mẹ. Lời cầu nguyện của
An-ne rất là rõ ràng và chính đáng. Bà không cầu xin Chúa trừng phạt Phê-ni-na
và những người làm khổ mình, cũng không xin Chúa cất đi niềm vui và hạnh phúc
của họ. An-ne chỉ xin một điều, xin Chúa đoái xem nỗi sầu khổ của nàng và ban
cho nàng một đứa con trai.
An-ne vừa khóc vừa dốc đổ lòng mình trước
mặt Chúa. Theo lời Thánh Kinh ghi, nàng không cầu nguyện thành lời nhưng chỉ
thầm nguyện với tấm lòng khẩn thiết, với nỗi niềm không thể nói nên lời. Ðây là
lời cầu xin tha thiết, từ tấm lòng tan vỡ chân thành. Khi cầu nguyện, An-ne
thật sự tâm giao với Chúa, hướng trọn linh hồn và tâm thần về Chúa, nàng không
để ý đến người chung quanh, cũng không cần biết người chung quanh nghĩ gì về
mình. Chính vì thế mà An-ne đã bị thầy tế lễ Hê-li hiểu lầm, tưởng nàng say
rượu nên nói lảm nhảm một mình.
Chúng ta cùng xem phần Kinh Thánh dưới đây
để thấy rõ nỗi lòng của An-ne:
“Sau khi người ta đã ăn uống tại Si-lô
rồi, An-ne bèn đứng dậy, lúc ấy Hê-li, thầy tế lễ, đương ngồi trên một cái ghế
gần bên cửa của đền Ðức Giê-hô-va. An-ne lấy làm sầu khổ trong lòng, vừa cầu
khẩn Ðức Giê-hô-va vừa tuôn tràn giọt lệ. Nàng hứa nguyện rằng: Ôi, Ðức
Giê-hô-va của vạn quân, nếu Ngài đoái xem nỗi sầu khổ của con đòi Ngài, nhớ lại
nó chẳng quên, và ban cho con đòi Ngài một đứa trai, thì tôi sẽ phú dâng nó
trọn đời cho Ðức Giê-hô-va, và dao cạo sẽ chẳng đưa ngang qua đầu nó.
“Vì nàng cầu nguyện lâu dài trước mặt Ðức
Giê-hô-va, Hê-li chăm xem miệng nàng. Vả An-ne nói trong lòng, chỉ nhóp nhép
miệng mà thôi, không có ai nghe tiếng nàng, nên Hê-li tưởng nàng say, bèn hỏi
rằng: chừng nào nàng mới hết say? Hãy đi giã rượu đi.” An-ne thưa rằng: Chẳng
phải vậy chúa, tôi vốn một đàn bà có lòng buồn bực, chẳng uống rượu hay là vật
gì uống say; nhưng tôi giải bày lòng tôi ra trước mặt Ðức Giê-hô-va. Chớ tưởng
con đòi của ông là một người đàn bà gian ác; vì nỗi đau đớn và ưu phiền quá độ
của tôi bắt tôi phải nói đến bây giờ” (I Sa-mu-ên 1:9-16).
Khi bị thầy tế lễ hiểu lầm, cho mình là
người say, An-ne đã thành thật thưa rằng nàng đang giải bày niềm đau của mình
với Chúa; vì quá đau buồn nàng không thể cầu nguyện thành lời chứ không phải là
nàng say rượu. Nghe vậy thầy tế lễ Hê-li có vẻ ân hận nên dù không biết An-ne
đã cầu xin Chúa điều gì, ông nói: “Hãy đi bình an, nguyện Ðức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên nhậm lời nàng đã cầu xin cùng Ngài.”
Thưa quý vị, bà An-ne là một phụ nữ có
nhiều điều cao đẹp cho chúng ta học hỏi nhưng vì giới hạn của Trang Phụ Nữ,
chúng tôi xin tạm ngưng bài nói về bà An-ne tại đây. Mời quý vị đón đọc trong
Thông Công số tới.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét