Thứ Tư, 23 tháng 3, 2016

THÁNH KINH 100 TUẦN TUẦN 62: SÁCH GIÓP (Chương 22-42)

0
THÁNH KINH 100 TUẦN
TUẦN 62: SÁCH GIÓP
(Chương 22-42)
Lần trước ta đã đặt mình vào hoàn cảnh đầy thử thách của ông Gióp và từ hoàn cảnh đau khổ của ông ấy, ta cũng rút ra một vài bài học cho đời sống đức tin của mình.
Hôm nay, mình không chỉ ngưng ở cái hoàn cảnh bên ngoài mà đi sâu hơn vào tâm trạng của ông Gióp.
Sách Gióp 29.
Trong những chương trước các bạn bè của ông Gióp xuất hiện rồi người nói thế này người nói thế khác, nhưng ý tưởng chính vẫn là họ cho rằng: Ông Gióp có tội cho lên mới bị chừng phạt. Nhưng ông Gióp phủ nhận những lời kết án đó.

Minh họa: Gióp 4: 7-9 “Ông hãy suy xét lại, nào bao giờ có kẻ vô tội bị hư mất?
Đâu có người ngay thẳng lại bị trừ diệt?
8 Theo điều tôi đã thấy, ai cày sự gian ác,
Và gieo điều khuấy rối, thì lại gặt lấy nó.
9 Bởi hơi thở Đức Chúa Trời, chúng bèn hư mất,
Tại hơi xịt giận Ngài, họ bị tiêu hao đi.”

Họ kết án như thế này thì ông Gióp có tội còn gì nữa? Có ai vô tội mà phải tiêu vong đâu, còn bây giờ ông Gióp bây giờ mất hết của cải, mất con cái, mất luôn cả vợ và đang sắp mất cả cái thân xác thì rõ ràng là có tội còn gì nữa.

Và cái nhìn này rất quen thuộc, không phải là thời của ông Gióp mà ngay cả đến thời của Chúa Jêsus.

Minh họa: Câu chuyện về người mù tử thuở mới sinh. Khi Chúa Jêsus và các môn-đệ thấy người mù đó thì các môn-đệ phàn ứng làm sao? Thưa thầy cái thằng này nó mù vì tội của nó hay là tội của cha mẹ nó?

Các môn-đệ của Chúa Jêsus phản ứng vậy, và chúng ta có phản ứng như vậy không? Lạy Chúa còn đã làm gì nên tội mà Chúa gửi thập tự giá nặng như thế này. Con đã làm gì mà Chúa lại phạt con thế này. Lúc nào mình cũng nuôi trong đầu cái ý tưởng là Chúa phạt mình.

Cho nên, cái ý tưởng đau khổ mà do tội lỗi mà ra, dĩ nhiên là chúng ta không có phủ nhận. Nhưng phải nhìn cái tội lỗi ở đây theo cái nghĩa liên đới toàn thể nhân loại. Chứ còn nếu chỉ đóng khunh trên bình diện cá nhân và giới hạn cái đau khổ đó ở trong cuộc đời này mà thôi thì sẽ có những hệ luận nguy hiểm.

Minh họa: Khi tôi làm ăn khấm khá, thịnh vượng, giàu có thế rồi trong lòng mình tự hào. Bởi vì ta đạo đức lắm cho nên Chúa mới cho như thế này.

Chứ còn người khác nghèo khổ là lắm tội. Biết đâu mình giàu có không phải vì mình đạo đức mà là vì vô đạo đức.
Đi cướp của người ta cho nên giàu, cướp đêm rồi cướp giữa ban ngày chứ có phải vì mình đạo đức đâu. Tự đánh lừa chính mình rồi từ đó mình khinh thường những người đau khổ, những người nghèo khó, những người đang gặp khó khăn.

Ông Gióp ông không chấp nhận lời kết án cho là ông có tội cho nên mới bị Chúa trừng phạt. Ở chương 29-31 mà chúng ta gọi là cuộc độc thoại của ông Gióp, ông diễn tả, suy nghĩ, tâm tình của mình kể lại rõ ràng nhất.

I.       THIÊN CHÚA LÊN TIẾNG (38,1 – 42,6)

Đứng trước lời than van của Gióp như thế Đức Chúa Trời phản ứng ra làm sao? Ở chương 38: 4-7
“Khi ta đặt nền trái đất, thì ngươi ở đâu?
Nếu ngươi thông sáng, hãy tỏ bày đi.
5 Ai đã định độ lượng nó,
Và giăng dây mực trên nó, ngươi có biết chăng?
6 Nền nó đặt trên chi?
Ai có trồng hòn đá góc của nó?
7 Trong khi ấy các sao mai đồng hát hòa nhau,
Và các con trai Đức Chúa Trời cất tiếng reo mừng.”

Chúa đặt vấn đề với Gióp, Chúa nói về những kỳ công trong công trình tạo dựng mà Ngài thực hiện và Ngài hỏi: Ngươi ở đâu?

Ngươi ở đâu khi ta làm những công việc đó? Và nếu chúng ta đọc tiếp thì Chúa còn nói đến những điều kỳ diệu trong vũ trụ về những hiện tượng thời tiết, về những sinh hoạt ở trong thế giới động vật. Chính tỏ Đức Chúa Trời là Đấng Thượng Chí. Đấng Toàn Năng. Ngài đã dồn ông Gióp vào cái thế rất kẹt. Ngài hỏi ông, ai là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan, hiểu biết để làm kế hoạch của ta ra tối tăm.

II. Ý nghĩa của sách Gióp - Vấn đề người vô tại phải chịu đau khổ:

Giả như một người mà chúng ta bảo rằng nó phạm tội độc ác mà nó bị đau khổ thì chúng ta cho đó là điều bình thường. Nhưng bây giờ những người vô tội. Tại sao phải chịu đau khổ?

Minh họa: Trong một cuốn tiểu thuyết của Al-be-ca-rít, ông đặt vấn đề trong bối cảnh của một cơn dịch hạch và có một thằng bé nó bị chuột cắn chết.

Ông Bác sĩ ông hỏi ông linh mục, ông trả lời cho tôi xem. Thằng bé này nó phạm tội gì mà Chúa để chuột nó cắn chết. Ngày hôm nay, cái đứa trẻ mới sinh ra có tội gì mà Chúa để cho nó nhiễm HIV.

Tại làm sao bao nhiêu kẻ làm gian ác trong cuộc đời này mà nó cứ sống phây phây ra, còn những người mà cứ cố gắng sống đạo đức, ngay lành thì lại khổ một đời như thế?

Một câu hỏi rất hóc búa, khi chúng ta đọc sách Gióp mình thấy một bên là những người bạn của ông Gióp khẳng định rằng: Rất khoát vì ông có tội cho nên ông mới phải chịu đau khổ.

Chẳng hạn một người bạn của Gióp đã nói: “ Xin anh nhớ kỹ có ai vô tội mà phải tiêu vong, có nơi nào người công chính lại bị hủy diệt”. Họ khẳng định như vậy, nhưng mà ông Gióp ông phủ nhận, cho dù ông phủ nhận thì họ vẫn khăng khăng nói rằng: Trước mặt Chúa, phàm nhân mà cho mình là công chính thế nào được?”

Và đứa con do người phụ nữ sỉnh ra làm sao dám coi mình là thanh sạch, cho nên đối với những người bạn của Gióp thì không thể có chuyện người vô tội mà phải chịu đau khổ.

Nhưng đối với ông Gióp và cả thực tế cuộc sống thì lại nói với chúng ta khác, thực tế là nhiều kẻ gian ác thì vẫn sống phây phây còn nhiều người tốt lành thì phải chịu đau khổ.

Những cuộc thảo luận, đối thoại trong sách Gióp cũng đã có những sự nhìn nhận nó, nhìn nhận rằng đau khổ là một mầu nhiệm. Và chúng ta không thể hiểu được đường nối của Chúa.

Ví dụ có câu: Liệu anh có dò nổi mầu nhiệm cao sâu của Đức Chúa Trời, liệu anh có nhận thức Đấng Toàn Năng tuyệt hảo dường nào.

Rồi một chỗ khác, sách Gióp nói đến đau khổ là phương thế Chúa dùng để dạy dỗ, để giáo huấn chúng ta. Và điều này rất là tốt thôi.

Nhìn lại cuộc đời có khi mình khám phá ra cái năm đó, cái giai đoạn đó, tôi khổ quá sức nhưng mà chính nhờ những giai đoạn đó mà tôi lên người.

Chính nhờ cái giai đoạn đau khổ đó mà tôi thay đổi đời sống, chứ còn nó cứ xuôi sắm mãi thì có khi tôi mất linh hồn. Điều đó là chúng ta cảm nghiệm.

Nếu chúng ta đọc sách Gióp từ đầu thì mình thấy chuyện ông Gióp ông phải chịu đau khổ đâu có phải là vì tội của ông ấy, mà là do Satan nó đề nghị Chúa thử thách, chứ không phải là vì tội của ông ấy. Cho nên cái chủ đề đau khổ là do hình phạt của tội nó không phải là chủ đề chính của sách Gióp này.

Vậy từ đó, chúng ta suy nghĩ xa hơn chút, cái đau khổ nó không phải là một vấn đề cho bằng đó là một mầu nhiệm. Tôi nói điều này là mượn cách nói của một triết gia.

Mầu nhiệm là một cái gì đó không phải ở trước mắt chúng ta nhưng là chúng ta bị nhấn chìm trong đó mình suy nghĩ về nó, và đồng thời mình hít thở trong đó, mình đau khổ, mình hạnh phúc, mình buồn vui trong đó. Cho nên người ta mới nói đến ở đời này có ba cái mầu nhiệm.
1.    tình yêu
2.    đau khổ
3.    cái chết.
Có ai trong chúng ta có cái lời giải đáp được cho tình yêu, đau khổ và cái chết không? Không.
Nhưng trong thực tế là chúng ta bị nhận chìm trong đó, suy nghĩ về nó, hít thở trong đó, hạnh phúc khổ đau cũng trong đó mà buồn vui cũng trong đó.

Mầu nhiệm hơn là vấn đề để mà giải quyết chính vì thế mà chúng ta được đề nghị hãy nhìn cái mầu nhiệm đau khổ trong tương quan của cuộc sống.
Ví dụ: Ông Gióp ở đây, cái khó khăn, đau khổ lớn nhất của ông ấy là ông cảm thấy mơ hồ về mối tương quan giữa bản thân ông ấy với Đức Chúa Trời.

Trước đây, nhớ lại những tháng ngày đã qua, ông cảm thấy rất hạnh phúc bởi vì Chúa ở bên như một người bạn còn bây giờ lại cảm nhận Chúa như là kẻ thù.

Minh họa: Gióp13: 24 ông kêu lên thế này “Sao Ngài lại ẩn mặt, và xem con như thù địch của Ngài ? Có phải điều Ngài muốn là làm run rẩy chiếc lá gió thổi bay, hay đuổi theo một cọng rơm khô héo ?”

Ông không còn cảm nhận được Chúa như một người bạn, như một người cha, chỉ thấy Chúa như một kẻ thù, đấy là cái điều làm cho ông ấy đau khổ nhất.

Minh họa: Đức Giáo Hoàng khi còn làm Linh-mục đã là một nhà thần học có tiếng, trong một bài viết cái hình ảnh mà ông dùng để diễn tả về mầu nhiệm cái chết. Hình ảnh mà quý vị tưởng tượng có một cậu bé, ban ngày vui chơi trong cánh rừng đến độ quên mất trời đã về chiều và khi bóng tối ập xuống trên cánh rừng thì cậu bé không còn biết đường nào mà về nữa.

Cậu sợ hãi quá mức, trong cái giây phút mà nó sợ hãi như vậy đấy thì nó mong chờ cái gì nhất, nó mong chờ có một bài dạy lý thuyết rằng con đang đứng ở tọa độ này, đi về hướng đông bắc, 1 cây số rưỡi rồi rẽ phải, năm trăm mét lại rẽ trái, nó có mong cái đấy không? Nó không mong cái đấy mà nó mong cái gì? Nó mong có một người cha đứng bên cạnh, đưa tay ra chạm lấy vai của nó và nói với nó: nào con cha con mình cùng đi. Đấy là điều mong ước nhất.

Lát-sing-ger đã dùng cái hình ảnh đó để nói về hình ảnh mầu nhiệm của cái chết.
Ai trong chúng ta khi đối diện với cái chết mà không sợ hãi, lúc đấy cái điều mà chúng ta mong ấy là không phải có ai đó đem sách Giáo Lý Tin Lành số bao nhiêu đem đọc cho mình nghe. Mà cái điều chúng ta mong đó là có ai đó ở bên cạnh đưa tay ra chạm vào vai mình và nói: nào con, con đi với cha.

Và Chúa Jêsus Christ là Đấng phục sinh là Đấng duy nhất mới có thể làm điều ấy cho con người.

Đấng đã kinh qua cái chết và trở thành Đấng hằng sống, Đấng duy nhất có thể dẫn chúng ta đi qua cái con đường của mầu nhiệm sự chết mà không sợ hãi gì.

Cho nên, tôi nhắc lại cái kinh nghiệm của ông Gióp, cái đau khổ của ông ấy nó không phải chỉ là vấn đề lý thuyết mà là cái sự mơ hồ trong cảm nhận về mối tương quan của mình với Chúa.

Chính vì vậy mà kinh qua những đau khổ, cuối cùng ông Gióp ông có những thay đổi nơi chính bản thân, trước đây đạo đức không ai phủ nhận nhưng mới là lý thuyết thôi không thực tế lắm. Rồi thực tế là nó xảy ra bao nhiêu thử thách, bao nhiêu đau khổ, ông suy nghĩ về những điều ông trải qua qua những lần tranh luận với bạn hữu thì cuối cùng thì ông nói:

Giop 42:5 “ Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa,
Nhưng bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài”.

Gặp Chúa qua chính kinh nghiệm đau khổ, và từ chỗ đó về mặt thần học thì có một câu hỏi rất lớn mà chúng ta không thể trả lời được. Câu hỏi: Chúa là ai?
Đâu là chân dung thực sự của Chúa.

Chương cuối trong sách Gióp 42:7b “bởi vì các ngươi không có nói về ta cách xứng đáng, y như Gióp, kẻ tôi tớ ta, đã nói.”

bởi vì các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta.
Nói đúng đắn ở đây được hiểu như thế nào? Chúng ta có thể hiểu hai cách.
1.    Ông Gióp đã nói về Chúa cách đúng đắn có nghĩa là lòng ông nghĩ gì thì ông nói thế.
Không có sảo ngôn, không ngụy biện, thật với chính mình, ông đau khổ, ông ấy hoài nghi, ông hoang mang, ông ấy nói. Không dấu diếm. Bạn bè của ông đưa ra cách giải thích này, cái giải thích nọ thật sự ông cũng biết chứ không phải không biết.

Nhưng ông không cảm thấy được thuyết phục và ông nói cả về Chúa bằng những câu mà chúng ta đọc ở trong sách mà người ta sẽ cho là xúc phạm.

Từ đó, tôi mới suy nghĩ điều này! Khi chúng ta cầu nguyện với Chúa, chúng ta có dám nói thật với Chúa những gì nó đang diễn ra trong lòng mình không? Có bao giờ chúng ta dám nói với Chúa Lạy Chúa con chán lắm rồi đấy. Lạy Chúa Chúa khó chơi lắm, hay là sợ phạm tội.

Nhưng Chúa muốn chúng ta lại nói với Ngài rất thật lòng nghĩ sao nói vậy. Khi cầu nguyện hãy cứ thoải mái nói với Chúa tất cả những tâm tình của mình, kể cả những sự buồn chán, kể cả một thái độ hoài nghi, sự lung lạc trong đức tin. Chứ đừng có cầu nguyện cách công thức, nói thật với Chúa những gì diễn ra trong tâm hồn mình.

2.    Cách hiểu thứ hai là: Ông Gióp đã nói đúng đắn về Ngài.
Đó là ông đã nói những điều đúng đắn về Chúa, các bạn của ông Gióp đã nói về Chúa nhiều lắm nhưng chỉ theo cái khung suy tư, lý luận của họ thôi, chứ không phải là Đức Chúa Trời đích thực đâu.

Họ quên mất một điều Đức Chúa Trời là Đấng bất khả đạt thấu. Đức Chúa Trời là mầu nhiệm vượt lên trên mọi hiểu biết và mọi khái niệm của con người chúng ta.

Chính vì vậy mà không bao giờ mình có thể nắm Chúa như là mình nắm giữ chìa khóa ở trong tay.

Con người cũng không nắm được còn nói gì đến chuyện nắm được Chúa, Thiên Chúa là Đấng bất khả đạt thấu. Cho nên chúng ta phải có sự khiêm tốn.



Cho nên, rút lại nội dung của sách Gióp để chúng ta thấy đây không phải là cuốn sách giải đáp một vấn đề thần học về sự đau khổ của người vô tội. Có chứ không phải không, nhưng mà không phải là như thế, nhưng chia sẻ cho chúng ta về một thái độ đức tin. Và đối với chúng ta ngày hôm nay, khi chúng ta đọc lại sách Gióp thì đừng quên rằng mình đang sống trong thời Tân Ước. Mỗi ngày mình chiêm ngắm về một người vô tội có tên là Jêsus người Na-xa-rét chính Đấng ấy mới là câu trả lời cho mọi nan đề của cuộc đời chúng ta.

THÁNH KINH 100 TUẦN ( Sáng-thế-ký 20-25)

0
( Sáng-thế-ký 20-25)
Giải Đáp Thắc Mắc
Khi giải thích thắc mắc phải dựa trên nền tảng Thánh Kinh, Vì nếu giải thích dựa trên nền tảng Thánh Kinh thì chúng ta sẽ không giải thích thắc mắc trên tính chất vụn vặt. Nhưng có một tầm nhìn tổng quát và lớn hơn.
Đức Chúa Trời là Đấng vô hình không ai nhìn thấy cả, thế bây giờ Chúa muốn nói chuyện với con người, Chúa muốn ngỏ lời với con người thì Chúa nói làm sao?
Minh họa: Khi chúng ta gặp một người nước ngoài nói tiếng anh thì mình nói chuyện với họ, muốn họ hiểu mình phải nói tiếng anh là ngôn ngữ của họ. Mình phải dùng ngôn ngữ của người ta.
Vậy thì khi Đức Chúa Trời muốn nói với chúng ta, Ngài cũng phải dung ngôn ngữ của con người, mà trên thế giới này có bao nhiêu ngôn ngữ, biết bao nhiêu dân tộc. Vậy thì Ngài phải dùng ngôn ngữ của một dân tộc nào đó và khi ta đọc Kinh Thánh thì Chúa dùng ngôn ngữ của dân tộc Do Thái.
Minh họa: Trong Thánh Kinh VN thì có phải CHúa trực tiếp Chúa nói bằng tiếng việt không? Mình phải dịch rất vất vả rồi mới ra. Mình dịch từ tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy Lạp sang tiếng việt để cho người VN.
Cho nên, khi Chúa muốn nói chuyện với mình thì Chúa phải dùng ngôn ngữ của con người. Cái ngôn ngữ đó bao giờ nó cũng gắn liền với một nền văn hóa.
Ngôn ngữ VN gắn với văn hóa VN. Và ngôn ngữ của dân tộc khác  gắn với văn hóa của họ.
Minh họa: Ở VN mình ăn cơm bằng đũa, bây giờ mình đi du lịch sang nước ngoài thì ăn cơm bằng gì dĩa, có người ví von con người tiến bộ từng bước một. Ban đầu là người ta ăn bằng năm ngón, bước thêm một bước nữa thì người ta ăn bằng bốn ngón cái dĩa, bước thêm bước nữa thì ăn bằng hai ngón. Mình trình độ cao.
Văn hóa khác nhau: Ở VN nhà có đám tang thì chúng ta mặc áo màu gì, chit khăn màu trắng, nhưng ở bên Âu châu thì người ta mặc bằng đồ đen.
Để hiểu Thánh Kinh thì chúng ta cần phải tìm hiểu ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử của Thánh Kinh. Thì mình mới có thể có tầm nhìn rộng lớn hơn và chính xác.
2.     Đường lối sư phạm của Đức Chúa Trời
Đường lối sư phạm hay đường lối giáo dục của Đức Chúa Trời, Chúa tạo dựng con người nguyên thủy theo hình ảnh của Chúa, và cho họ được sống trong vườn địa đàng nghĩa là trong hạnh phúc nguyên thủy.
Nhưng tổ phụ loài người đã không trân trọng cái hạnh phúc ấy, đã phạm tội và đánh mất cái hạnh phúc ấy. Nhưng Đức Chúa Trời yêu thương để cứu rỗi con người thế thì Chúa lại phải giáo dục lại từ đầu. Và Chúa giáo dục bằng những bước tiện tiếm, từng chút, từng chút một.
Minh họa: Liên hệ đến chính cuộc sống của mình, khi người làm mẹ sinh con ra thì phải cho bú trước, sang một giai đoạn khác thì tập cho những chất lỏng mềm, rồi sang chất cứng. Vào lớp một thì phải đánh vần A, B, C. Không B. C thì cũng bờ cờ.
Vậy thì đường lối giáo dục của Chúa tiệm tiến, từ từ, từng bước từng bước một.
Khi đọc Kinh Thánh mình cũng thấy Chúa giáo dục nhân loại bằng con đường tiệm tiến.
Minh họa: Luật ly dị, có phải ngay từ đầu của sách Sáng thế mình đã thấy Chúa nói là người đàn ông rằng: sẽ lìa cha mẹ mình mà luyến ái cùng vợ mình và cả hai sẽ trở nên một thịt.
Vậy thì đến thời Môi-se thì Môi se lại cho phép ly dị, và khi chúng ta đọc đến sách Lê-vi-ký khi một người đàn ông thấy vợ mình có một điều gì đáng bị ruồng bỏ thì viết cho người vợ đó một giấy ly thư.
Luật Môi se thì vậy, còn có những trường phái vợ mà hỗn náo với bố mẹ chồng thì bỏ, Nấu cơm khê cũng bỏ, ngáy cũng bỏ.
Sau này đến thời Chúa Giê xu nói rằng: Vì cớ các ngươi cứng lòng cho nên Môi se ch phép các ngươi ly dị, chứ còn từ thuở ban đầu thì không phải như vậy.
Chúa giáo dục con người trong lịch sử bằng những bước đi tiệm tiến, cho nên chúng ta lên quan tâm đến đường lối sư phạm của Đức Chúa Trời.
Khi đọc Thánh Kinh, chúng ta không nên tách một câu ra khỏi mạch văn của nó, mà phải đặt câu ấy vào trong toàn bộ mạch văn, và hơn nữa là đặt câu ấy trong toàn bộ Thánh Kinh thì lúc đấy chúng ta mới hiểu một cách đúng đắn.
Mình là người Tin Lành, mình lấy Tân Ước để soi sang cho Cựu Ước, lấy mới soi sáng cho cũ, lấy gần giải nghĩa cho xa.
SÁNG THẾ 
(chương 25-36)
I. ESAU, GIACOP VÀ MẦU NHIỆM TUYỂN CHỌN (25,19-26)
Sách sáng thế có hai phần chính: từ 1-11, 11 chương đầu rất quan trọng nói đến những vấn đề vượt thời gian, vượt trên lịch sử của loài người, nói đến tội lỗi xâm nhập trần gian, nguồn gốc và hậu quả của tội lỗi.
Từ 12-50 chúng ta nói đến các tổ phụ: Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp.
Sáng-thế-ký 25:19-26 nói đến việc sinh hạ Ê-sau với Gia-cốp.
Ai sinh? Đó là Rê-bê-ca, chồng là Y-sác.
Tên Gia-cốp có nghĩa là: Xin Đức Chúa Trời che trở.
Chương 25 kể lại một câu chuyện: Ông Ê-sau không biết ông tham ăn, tham uống thế nào? Mà bán luôn quyền trưởng nam cho ông em chỉ với một bát canh đậu đỏ.
Ông em ông lại được hưởng quyền trưởng nam, ông Ê-sau được có mỗi bát cháo thôi mà mất cả quyền trưởng nam.
Minh họa: ngồi ngẫm nghĩ lại có những lúc chúng ta cũng chỉ vì một cái lợi nhỏ mà không chừng đánh mất linh hồn. Trong khi Chúa bảo nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn thì có ích chi đâu.
Nhiều khi mình chỉ vì một món lợi rất nhỏ thôi, mà mất cả linh hồn.
Giu-đa-ích-ca-ri-ốt cũng chỉ được mỗi ba mươi đồng thôi, cuối cùng cũng có được sài đâu, ông đã quăng trả cho người ta rồi đi tự tử.
Cho nên, không phải chỉ có Ê-sau ngớ ngẩn đâu mà chính chúng ta cũng ngớ ngẩn bán luôn cái quyền làm con Đức Chúa Trời cho Ma-quỷ.
Sang chương 26 thì có những mẩu chuyện về Gia-cốp.
Sang chương 27 thì lại một câu chuyện khác về ông Gia cốp cho thấy cái ông Gia cốp náu cá.
Cướp cả lời chúc phước từ người cha già để lại cho người anh lớn thì bây giờ ông Gia cốp được hết.
Thời các tổ phụ ngày xưa, việc chúc phúc lành là quan trọng lắm, và khi lời chúc lành đã được ban ra thì không thể rút lại, cho nên lời chúc lành của tổ phụ Y-sác trước khi qua đời cho người con mà ông nhắm là Ê-sau.
Ông Gia-cốp được bà mẹ sắp đặt, cuối đến chương 27 đầu chương 28 nói đến việc ông Gia-cốp đi tìm vợ, và ở trong chương 28 có một sự kiện quan trọng đó là giấc mơ của Gia cốp tại bê-tên.
Trong giấc mơ đó, Gia-cốp thấy điều gì? Thấy một cái thang nối trời và đất, và đồng thời nghe những lời Đức Chúa Trời lập lại những lời hứa mà Ngài đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham và Y-sác.
Trước khi, chúng ta đi đến điểm nhấn của những sự kiện nổi bật thì tôi muốn anh chị em nhớ dùm tôi một từ là: Bê-tên.
Mai đây mình học sách Sử ký thì mình sẽ thấy khi đất nước Y-sơ-ra-ên bị chia cắt làm đôi hai miền nam bắc. Ở miền bắc thì ông vua ông sợ dân chúng cứ đi lên Giê-ru-sa-lem mà Giê-ru-sa-lem lại ở miền nam. Ông sợ là nếu dân chúng cứ đi như vậy thì dần dần dân chúng sẽ thuộc về ông vua miền nam.
Thế lên ông quyết định lập một đền thờ ở tại Bê-tên để khuyến khích người ta không cần phải đi Giê-ru-sa-lem nữa, mà chỉ cần đến Bê-tên thôi thờ phượng Chúa là được rồi.
Khi chúng ta đọc trong Thánh Kinh mà thấy cái từ Bê-tên thì nhớ lại cái từ ngã này được bắt rễ, bắt nguồn từ tổ phụ Gia-cốp.
Sang đến chương 29 thì kể chuyện ông Gia cốp đến nhà của ông cậu là La-ban, và cũng trong chương này nói đến cuộc hôn nhân của ông Gia cốp một lúc ông lấy được hai bà vợ.
Ông yêu cô em, vì cô em đó mà ông chấp nhận làm công bảy năm, đến lúc làm đám cưới thì hóa ra cô chị, vì quá yêu cô em cho lên ông sẵn sàng ở thêm bẩy năm nữa.
Nhã ca nói rằng: tình yêu mãnh liệt hơn sự chết, mười bốn năm Gia cốp lấy được hai chị em con của La ban.
Sang chương 29-30 nói tiếp ông Gia cốp lấy thêm hai nữ tỳ nữa, ông lấy được hai bà vợ là Ra-chên và Lê-a. Bà Lê-a sinh sản rất tốt còn bà Ra-chên thì hiếm muộn, chính vì vậy mà bà ấy đề nghị là bà ấy dâng nữ tỳ cho chồng. Nhưng cuối cùng Chúa lại cho bà Ra-chên sinh được một người con, một người con rất đặc biệt là: Giô-sép. Và đây là nhân vật rất quan trọng trong Thánh Kinh.
Và trước khi chết bà ấy sinh thêm một đứa nữa là: Bê-gia-min.
Thế bây giờ, chúng ta đi đến những sự kiện nổi bật trong những chương này.
1.     Gia-cốp được Đức Chúa Trời tuyển chọn

Trong gia đình có hai người con là Ê-sau và Gia-cốp, Ê-sau là anh và là người có quyền trưởng nam, vậy là ông em là Gia-cốp lại chiếm quyền trưởng nam của ông anh.
Mặc dầu chúng ta có thể kết án ông Ê-sau vì đói quá lên không coi trọng quyền trưởng nam của mình nữa, nhưng về phía Gia cốp thì cho thấy ông là một người rất là mưu mô, lợi dụng cái lúc như vậy để lừa gạt, bắt bí người ta.
Nói về mặt nhân cách thì Gia cốp không tốt lắm, rồi lại một chỗ khác thì Gia cốp lại âm mưu chiếm lời chúc phước của cha, mở ra chương 27 thì rõ ràng đây là một âm mưu không thể chạy tội hay chối tội được.
Trong chương 27 kể rất chi tiết là ông Y-sác đã già, mắt lòa không trông thấy rồi, ông Ê-sau là con lớn và nói với con như thế này: cha già rồi không biết chết ngày nào, bây giờ con hãy lấy khí giới của con, và cây cung của con lên đồng săn thú và làm cho cha một món ăn ngon đem đến cho cha rồi cha đích thân chúc phúc cho con trước khi chết.
Khi ông Y-sác nói với con trưởng là Ê-sau như thế thì bà Rê-bê-ca nghe được, và bà ấy nói với người con út là Gia-cốp đến bầy súc vật bắt hai con dê đực ngon và mập, mẹ sẽ làm cho cha một món ăn  ngon theo sở thích của cha con rồi con đem đến cho cha rồi người chúc phúc cho con.
Hai mẹ con âm mưu với nhau mà khổ thân, tội nghiệp tổ phụ Y-sác, Ê-sau thì lông lá còn Gia-cốp thì nhẵn nhụi, biết đâu cha giờ vào sẽ biết con lừa gạt cha và chuốc lấy lời rủa sả rồi mẹ bảo, con ơi nếu con bị rủa sả thì mẹ sẽ gánh thay cho con, cứ nghe lời mẹ, bà hóa trang cho ông con, dù ông Y-sác cẩn thẩn đến độ là nói với con đến gần để giờ xem có phải Ê-sau không: thế ông giờ thì bảo tiếng thì tiếng Gia cốp còn tay thì tay Ê-sau.
Minh họa: Có nhiều lúc chúng ta cũng vậy, mang trên mình hai bộ mặt, hai con người, một con người thật và một con người giả.
Tội nghiệp Y-sác bị hai mẹ con đánh lừa, không biết chúng ta già như ông Y-sác rồi có bị con nó đánh lừa không?
Minh họa: Có một cha đạo kia cũng có một linh mục và là giáo sư ở chủng viện, mùa hè thì về quê thăm gia đình thì hằng tuần ra nhà thờ dâng lễ giúp cho giáo dân. Hôm đó, vị cha đạo này ngồi ngay chỗ tòa giải tội và bà cố đi xưng tội, và khi gần ngửi mùi đã biết là con rồi. Và bà cố mới hỏi: Mày ở trong đó hả mày, người con đứng trong bực quá, má không có đức tin gì hết. Bà cố nói: không có đức tin mà để ra linh mục, bà cố này đã ngửi được mùi của con mình. Không lừa được.
Tội nghiệp cho Y-sác tiếng thì tiếng của Gia cốp mà tay thì lại là tay Ê-sau.
Minh họa: Khi chúng ta bị mù, chúng ta hay chọn lựa sai lầm, mù tâm linh sẽ chẳng nhận định được điều gì là sáng suốt. Giống như thầy bói xem voi.
Câu chuyện của Gia-cốp chúng ta đọc thấy ông là con người gian lận, mưu mẹo, mánh khóe, lừa gạt. Và câu hỏi đặt ra là thế này:
Tại sao Chúa lại đi chọn một người mà về mặt nhân bản xem ra không được tốt lắm, xem ra không được ngay thẳng, chính trực cho lắm.
Tại sao Chúa lại chọn người đó? Để hưởng mọi phúc lành? Câu trả lời là một sự mầu nhiệm, thực sự chúng ta không biết, chúng ta không hiểu được ý định và chương trình của Đức Chúa Trời.
Và chỗ này làm nổi bật lên ý nghĩa như thế này: Đức Chúa Trời hoàn toàn tự do trong sự chọn lựa của Ngài.
Ngài chọn lựa chúng ta không tùy thuộc vào nhân đức, và tài năng của mình mà là một sự chọn lựa hoàn toàn cho không.
Trong từ ngữ chuyên môn của Kinh Thánh là: Nhưng không.
Từ ngữ này người ngoại đạo không hiểu được, sao nhưng rồi mà lại còn không nữa. Nghĩa chính của nó là: cho không, giống như lời của bài hát: Tình cho không bán không?
Làm nổi bật lên tình yêu cho không của Đức Chúa Trời dành cho loài người chúng ta.
Trong cuốn sách có tựa đề: Ơn ban và huyền nhiệm, trong đó có một câu mà tác giả đã viết rằng: Ở cội nguồn sâu xa nhất của mọi ơn gọi là một huyền nhiệm.
Mình không hiểu được bằng những lý luận tự nhiên con người.
Minh họa: Nhiều người tài giỏi, thông minh, đạo đức thì Chúa lại không chọn, mà có thể Chúa chọn một người không có thông minh lắm, không đạo đức lắm để làm Mục sư.
Sự chọn lựa của Chúa không tùy thuộc vào những tính toán tự nhiên của chúng ta.
Minh họa: Khi Chúa muốn chọn cho dân Chúa một người cha, thì Chúa lại đi chọn một ông già là Áp-ra-ham, khi Chúa chọn một người đi giảng Tin Lành cho dân ngoại thì Chúa lại chọn một người đã từng bắt bớ, bách hại Hội Thánh Chúa đó là thánh Phao lô, Chúa muốn chọn một người đi làm chứng cho tình yêu của Chúa thì Chúa lại chọn một cô gái điếm.
Toàn chuyện ngược đời thôi, ở đấy cho thấy sự chọn lựa của Đức Chúa Trời là một sự chọn lựa hoàn toàn tự do, một sự chọn lựa phát xuất từ tình yêu nhưng không.
Cho nên, nếu chúng ta được Chúa chọn lựa để trở thành con cái của Chúa hoặc Chúa có chọn lựa chúng ta để chúng ta trở thành người hầu việc Chúa thì cũng đừng có quên rằng: chẳng phải là vì công lao của mình mà là bởi tình yêu cho không của Ngài mà thôi.
Và đồng thời cũng ý thức thêm rằng: Là Đức Chúa Trời can thiệp vào đời sống của mỗi một người trong chúng ta, cũng như trong lịch sử nhân loại.
Nhìn vào lịch sử thế giới ta sẽ thấy, nó có những biến cố xảy ra và thực sự nó vượt lên trên mọi sức tưởng tượng của con người, không ai nghĩ là nó xảy ra như vậy. rồi trong cuộc đời của mỗi chúng ta cũng như vậy.
Minh họa: Có nhiều lúc cần phải bình tâm, suy nghĩ về tình yêu thương của Chúa trong cuộc đời mình, Chúa đã can thiệp vào và Ngài luôn có mặt trong những biến cố đau thương nhất của chúng ta.
Chúng ta nhớ lại trong đời mình có một biến cố nào đó mà qua đó mình cảm nhận rất rõ ràng về sự hiện diện yêu thương của Chúa.
Minh họa: Lúc còn nhỏ, ông này sống ở một vùng quê, bà mẹ đang ở trong bếp thấy con tìm giáo giết hỏi con tìm gì vậy? thì con nói mẹ có thấy con dao to nhất nhà mình ở đâu không? Và mẹ không biết là con tìm dao để làm gì? Cứ hỏi mà nó không trả lời và khi nó tìm được thì chạy vội ra đồng bà mẹ lo sợ chạy theo, thì thấy hóa ra nó tìm dao để bổ một trái cứng lắm. Trái gì vậy? Lựu đạn, cái con dao ấy mà bổ vào trái lựu đạn ấy thì bổ ra thì cả đám chết hết.
Ông kể lại và thường xuyên nhớ lại câu chuyện đó và tôi ý thức rằng Chúa yêu thương tôi, Chúa muốn cho tôi sống để tôi phục vụ làm việc cho Chúa.
Đấy là cách hồi tưởng lại những biến cố rất đặc biệt ở trong cuộc đời của mình, qua đó mình cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Chúa. Không nói lý thuyết suông mà là cảm nhận, kinh nghiệm bằng trái tim bằng cuộc sống cái sự hiện diện của Chúa. Và khi mình xác tín mình ở trong sự hiện diện yêu thương của Chúa thì mình bình an lắm.
Đối với nhân loại thì khó chấp nhận con người của Gia-cốp một người mưu mô, tính toán, lừa gạt mà lại được Chúa biến đổi chọn lựa, qua đó chúng ta có thể suy nghĩ về đời sống của mình, về sự chọn lựa được làm con của Ngài.
2. HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA GIA CỐP ( Sáng 28)
Khi nhìn vào hành trình đức tin của Gia cốp thì cũng là dịp nhìn lại hành trình chính đức tin của chính chúng ta.
Gia-cốp vật lộn cùng thiên sứ tại núi Phê-ni-ên. - Đổi tên ra Y-sơ-ra-ên. ( Sáng 32: 24-32)
Khi ta nhìn vào hành trình đức tin của tổ phụ Gia-cốp, ta sẽ thấy cái hành trình đó bắt đầu từ Bê-tên. Trong một giấc chiêm bao thì Gia cốp thấy một cái thang nối trời và đất. Trong Phúc âm  Giăng 1: 51 Chúa Giê xu nhắc đến hình ảnh cái thang nối trời và đất.
Chúa Giê xu chính là cái thang nối trời và đất, trong khải tượng ông thấy cái thang đó thì đồng thời ông nghe thấy nhắc lại những lời hứa mà đã được ban cho tổ phụ Áp-ra-ham.
Hành trình đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham bắt đầu từ đó Bê-tên. Và sau đó ông bước vào một hành trình với rất nhiều thử thách mà một trong những khúc Kinh Thánh nổi bật là: ông vật lộn với Đức Chúa Trời.
Và sau cái biến cố này thì Gia-cốp trở thành một con người khác, ông mang một cái tên mới là: y-sơ-ra-ên.
Khi Chúa ban cho ai một tên mới thì đồng thời họ là một con người mới và là một sứ mạng mới.
Tổ phụ Áp-ra-ham cũng được đổi tên. Tên hồi trước là: Áp-ram về sau này thành Áp-ra-ham.
Phi-e-rơ cũng được đổi tên: từ Si-môn trở thành Sê-phê hoặc Phi-e-rơ.
Gia-cốp được đổi tên thành Y-sơ-ra-ên và sau cái biến cố vật lộn với Đức Chúa Trời đời sống của ông thay đổi.
Ông cư xử với anh ông ấy là Ê-sau không phải là bằng mưu mô, lươn lẹo, lừa gạt như ngày xưa nữa, mà là cư xử rất chính trực, và cuối cùng là trở về Bê-tên để hoàn tất cái lời hứa là: dựng một bàn thờ tại Bê-tên để thờ phượng Ngài, chúng ta thấy Gia cốp nói như thế này: “Nếu Đức Chúa Trời ở cùng tôi, gìn giữ tôi trong lúc đi đường, cho bánh ăn, áo mặc, 21 và nếu tôi trở về bình an đến nhà cha tôi, thì Đức Giê-hô-va sẽ là Đức Chúa Trời tôi. 22 Hòn đá đã dựng làm trụ đây sẽ là đền Đức Chúa Trời, và tôi sẽ nộp lại cho Ngài một phần mười mọi của cải mà Ngài sẽ cho tôi.” ( Sáng 28: 20)
Bây giờ, ông mới thực sự cảm nhận và kinh nghiệm được Thiên Chúa có mặt ở trong đời của ông ấy. trước đó, Đức Chúa Trời vẫn ở đó mà tôi không biết, còn bây giờ sau một cuộc đời với bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu đau khổ mới cảm nhận và kinh nghiệm được Chúa ở với mình.
Trong Sáng 32:30 “ Gia-cốp đặt tên chỗ đó là Phê-ni-ên [†]
Đó chính là hành trình đức tin của Gia-cốp và chúng ta thử xem xem hành trình của tổ phụ đức tin Gia cốp có giống hành trình đức tin của mình không?
Từ chỗ chúng ta không cảm nghiệm và kinh nghiệm được sự hiện diện của Chúa một cách mật thiết và rõ nét và trải qua biết bao những biến cố đau thương mình mới khám phá ra được sự hiện diện tình thương của Chúa trong đời sống của mình.
* Đức tin là một hành trình
Nghĩa là một con đường mà tôi phải đi, một chuyển động chứ không phải là nó đứng yên, đức tin là phải chuyển động, là phải có việc làm, có hành động. Gia cơ bảo rằng: Đức tin phải có việc làm, đức tin mà không có việc làm là đức tin chết.
Đức tin không phải là một đồ vật, mà đức tin là một sự sống, là một chuyến đi là một hành trình. Nhiều khi ta quên cái điều này, nhiều khi mình cứ tưởng tin Chúa thế là xong, làm Lễ Báp Têm xong là đủ rồi, làm sao đủ được, sống đức tin là đi suốt cuộc đời, một hành trình dài.
Minh họa: Sinh ra ai cũng làm người nhưng không phải ai cũng làm người cho ra người, trong gia đình và trong xóm thì thấy ai ăn ở không ra gì thì người ta bảo rằng: thằng này nó không còn tính người nữa.
Làm người là một hành trình, mỗi một ngày là trở thành người hơn.
Có nhiều khi tôi cảm nghiệm thế này!
Học để làm Mục sư thì khó, nhưng cũng không khó lắm, sống cho ra Mục sư mới khó.
Làm Mục sư cũng là một hành trình, mỗi một ngày là một Mục sư của Chúa đúng nghĩa. Thế thì đời sống đức tin tương tự như vậy, không phải một lần là xong.
Mà là một hành trình dài, mỗi một ngày trở nên môn đệ của Chúa Giê xu đúng nghĩa hơn.
* Đức tin là một cuộc vật lộn
Gia-cốp vật lộn với Chúa, thực sự ta muốn sống đức tin của người Tin Lành cho đến nơi đến chốn thì đó là một cuộc vật lộn với Đức Chúa Trời.
Minh họa: Chúa Giê xu ở trong vườn Ghết-a-ma-nê Ngài đã vật lộn với thánh ý của Đức Chúa Cha.
Vật lộn đến nỗi là vã mồ hôi, nặng như những hạt máu.
Khi chúng ta đối diện với một cơn cám dỗ, một đằng thì sức hấp dẫn kinh khủng của cơn cám dỗ, và một đằng khác là tiếng lương tâm là lời mời gọi của phúc âm, chúng ta có cảm nhận chúng ta đang vật lộn với thánh ý của Chúa không? Thường xuyên như vậy, nếu mình không cố gắng để chống trả cơn cám dỗ thì mình không cảm nhận được sự vất vả khi phải vật lộn.
Phao lô đã cảm nhận sự vất vả trong sự vật lộn trong tâm linh của ông:
Khi tôi muốn làm điều lành thì điều dữ dính dấp theo tôi.
Minh họa: Khi tôi lấy chiếc xe đạp đạp xuôi theo chiều gió thì thấy mát lắm, nhưng khi gió thổi mạnh tôi đạp ngược chiều gió thì rất vất vả.
Tương tự như vậy, khi ta đối diện với một cơn cám dỗ mà mình chiều theo cơn cám dỗ ấy thì rất là thoải mái, chẳng vất vả chút nào. Mình cố gắng mình đi ngược lại cơn cám dỗ thì sẽ cảm nhận vất vả vô cùng.
Có người đã tranh đấu với con cám dỗ thì đã ngồi trên một bão tuyết.
Nếu chúng ta muốn sống đức tin Cơ Đốc Giáo đến tận cùng thì giống như Gia cốp, ta phải chấp nhận vật lộn với Chúa. Nhưng có điều là sau cuộc vật lộn thì Gia cốp trở thành một con người mới.
Tương tự như vậy, người môn đệ Chúa Giê xu mà thực sự vật lộn với những giá trị phúc âm, vất vả thật kết quả là sẽ trở thành con người mới.
Đòi hỏi chính yếu và căn bản của một Cơ Đốc nhân là đổi mới.
Ăn năn, hoán cải không chỉ nhớ về quá khứ để ăn năn tội lỗi của quá khứ nhưng còn hướng về tương lai để sống một đời sống mới đó là ý nghĩa sâu xa của sự hoán cải trong Thánh Kinh.
Sáng 22: 3-10
Đức Chúa Trời yêu thương
Chúa ban cho Áp-ra-ham chỉ có một đứa con duy nhất, và bây giờ Đức Chúa Trời đòi Áp-ra-ham đem con lên ngọn núi để giết làm của lễ hiến dâng cho Ngài.
Khi chúng ta đọc đoạn Kinh Thánh này thì chúng ta hình dung ra Thiên Chúa là ai? Hiền lành hay dữ tợn? Nhân từ hay tàn ác? Có nhiều người không dám nói nhưng trả lời trong lòng.
Có thể chúng ta tưởng tượng ra và thốt lên rằng: Sao Chúa ác quá, Chúa gì mà khủng khiếp quá, và một người ngoại đạo khi đọc đoạn Kinh Thánh này thì chắc người ta không dám tin theo đạo Tin Lành nữa.
Nhưng chúng ta đừng quên rằng ở những câu cuối đó Thiên sứ của Đức Chúa Trời gọi Áp-ra-ham đừng giờ tay sát hại đứa trẻ đó, đừng làm gì nó, bây giờ thì ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa.
Cho nên, Y sác không chết, Áp-ra-ham vẫn còn đứa trẻ đó, và từ Y sác sẽ có Ê-sau, Gia cốp, và từ Gia cốp sẽ 12 chi tộc Y sơ ra ên và từ 12 chi tộc thành cả một dân tộc.
Khi đọc khúc sách này, chúng ta hãy hình dung ra một cảnh khác. Đây không phải là câu chuyện trong trí tưởng tượng mà là nó đã xảy ra thực sự trong lịch sử của con người.

Có một người Cha là Đức Chúa Trời, người Cha đó đã trao Con một người con yêu dấu của mình cho nhân loại, người con có tên là Giê xu.
Và một ngày kia, người con đó đã phải vác cây thập giá đi lên đồi Gô-gô-tha, và người Cha từ trời cao nhìn xuống thấy đứa con yêu dấu của mình, phải vác thập giá lên đồi Callve.

Và ở đó, nhân loại đã đóng đinh người con yêu dấu của Ngài trên thập tự và dựng nó giữa trời và đất, và khi nhân loại đóng đinh vào người con có tên là Giê xu đấy thì có bàn tay nào ngăn cản lại để họ đừng đóng đinh nữa không?
Có lời an ủi nào đến với Con Đức Chúa Trời trong giây phút ấy không? Khi chúng ta nhớ đến cảnh đồi Gô-gô-tha thì chúng ta khám phá ra câu chuyện này là câu chuyện đã được kể từ lâu để hướng mắt tôi nhìn lên đồi Gô-gô-tha.
Và ở đó chúng ta thấy một chân dùng Thiên Chúa hoàn toàn khác không phải là một ĐỨc Chúa Trời tàn ác mà là một Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại đến nổi đã ban con Một của Ngài, không phải là một Đức Chúa Trời đòi hỏi mà là một Đức Chúa Trời hiến tặng chính sự sống của mình cho nhân loại.

Đọc Kinh Thánh Cựu Ước hướng mắt về Chúa Giê xu để khám phá ra Chúa Giê xu Christ là Chúa của tình yêu.
Có một nhà giải Kinh đã nói rằng: Giả sử như có một cuộc hỏa hoạn và sách vở cháy hết, kể cả Kinh Thánh nhưng chỉ còn có một câu đó thôi thì cũng vẫn đủ, bởi vì tình yêu là cốt lõi của đạo, cốt lõi của Phúc Âm.

Niềm tin nơi Đức Chúa Trời là Cha yêu thương tôi, niềm tin căn bản, nền tảng của Tin Lành là dù hoạn nạn hay đau thương thì Đức Chúa Trời luôn luôn yêu thương, an ủi con cái của Ngài.

Đức Chúa Trời là Đấng Trung Thành với Lời Ngài đã hứa.
Chúa hứa nhưng Ngài thực hiện. nhưng nhiều khi chúng ta tưởng rằng Chúa hứa nhưng Ngài chẳng giữ lời hứa gì cả.

Minh họa: Chúa hứa cho ông dòng dõi ông sẽ trở thành đông như sao trên trời nhiều như cát dưới biển.
Nhưng gần 100 tuổi vẫn không có con, đến lúc có con thì lại bảo dâng cho Chúa, nhưng cuối cùng thì Chúa luôn luôn thực hiện lời Ngài đã hứa, Đức Chúa Trời luôn trung thành với lời Ngài đã hứa.
Sự trung thành đó rất cần với chúng ta, chúng ta có tin vào sự trung thành giữa vợ với chồng chúng ta không? Giữa vợ với chồng gắn bó với nhau như một mà mình vẫn không tin vào sự trung thành của người khác, cho lên mới có cái câu rằng: Đồng sàng dị mộng, ngủ thì vẫn chung giường nhưng mà mơ thì khác nhau, ông mơ bà, bà mơ ông khác.
Tin vào sự trung thành của Chúa là rất quan trọng nó là nền tảng đức tin của cuộc đời chúng ta, cho dù ai đó phản bội chúng ta, ai đó gian dối nhưng tôi biết chắc chắn rằng: Chúa là Đấng trung thành với tôi.

Đó là điểm tựa rất lớn ở trong cuộc đời chúng ta, và mình là những người được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa thì mình cố gắng để noi gương Chúa sống và giữ sự trung thành. Kể cả khi người đời người ta phản bội và gian dối thì bản thân chúng ta cố gắng sống sự trung thành.
Đừng quên rằng để sống sự trung thành thì phải có ơn của Chúa chứ không phải của một mình chúng ta đâu.
Minh họa: Giá như hầu việc Chúa ký hợp đồng thì tốt quá, khi nào không chịu được thì thôi.
Nếu Chúa thực sự gọi mình thì Chúa ban ơn cho mình để chúng ta có thể sống trung tín với sự kêu gọi của Chúa.
Đức Chúa Trời là Chúa của Lịch sử.
Không phải chúng ta là chủ mà chính Chúa mới là chủ của lịch sử, và Chúa hướng dẫn lịch sử này bằng con đường vượt ngoài trí tưởng tượng của chúng ta.
Minh họa: Cuộc đời của Giô sép
Được cha yêu thương, nhưng anh em ghen ghét, bị bán làm nô lệ, đẹp trai, bà chủ thích, bà dụ dỗ không được cho lên đổ lỗi cho, và vào tù. Coi như cuộc đời xong rồi. Có ai ngờ được rằng: ông ở trong tù, ông được ra và một phát lên làm tể tướng. Nhờ ông làm tể tướng mà cả gia tộc được cứu đói, và cả một dân tộc Y sơ ra ên được cứu thoát.
Cho lên chính Chúa mới là chủ của lịch sử, chính Chúa mới là chủ của cuộc đời chúng ta. Khi chúng ta nhìn lại cuộc đời mình thì mình thấy rõ bàn tay của Chúa dẫn đưa chúng ta rất tuyệt vời.
Hãy tin cậy và trao phó cuộc đời cho Chúa, tin cậy và trao phó Hội Thánh cho Ngài, Ngài là Chủ của lịch sử.
Tôi muốn đi xuyên qua các chân dung, khuôn mặt của các tổ phụ tôi muốn chia sẻ đức tin và được nâng đỡ để tin và trao phó vào một Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương, một Đức Chúa Trời trung thành với lời hứa của Ngài và tin vào một Đức Chúa Trời là chủ của lịch sử.
Xin các anh em cùng học tiếp sách Xuất hành.





THÁNH KINH 100 TUẦN TUẦN 3. SÁNG THẾ KÝ (Chương 12-19)

1
SÁNG THẾ KÝ
(Chương 12-19)

11 chương đầu của sách Sáng-thế-ký là nói về nguồn gốc của vũ trụ, nguồn gốc loài người, rồi mô tả cho chúng ta nguồn gốc của cái ác, tại sao nó xuất hiện trong trần gian này. Và cái ác nó đã đem đến những hậu quả như thế nào cho đời sống của con người.
Mối tương quan giữa vợ chồng trong gia đình, tương quan trong anh em, tương quan con người với con người, và cả tương quan giữa con người và vũ trụ bị đổ vỡ ra sao.
Nhưng bên cạnh sự gẫy đổ tất cả mối tương quan của con người thì lời hứa cứu rỗi, sau 11 chương đầu, chúng ta bắt đầu bước vào chương 12 là bắt đầu các trình thuật, ký thuật về các tổ phụ.
Mà đầu tiên là tổ phụ Áp-ra-ham, và qua sự ký thuật về các tổ phụ này và cũng như qua sách khác trong Thánh Kinh là ta thấy Đức Chúa Trời thực hiện công trình cứu chuộc của Ngài trong lịch sử nhân loại như thế nào?
Và bây giờ, chúng ta bắt đầu với tổ phụ Áp-ra-ham.

I. TIẾNG GỌI VÀ LỜI ĐÁP TRẢ CỦA ABRAM
Sáng-thế-ký 12:1-5
Ở đây, chúng ta đọc thấy Áp-ram, mãi đến chỗ chương 17:5 thì sẽ thấy người ta gọi tên là Áp-ra-ham. Như vậy, Chúa đổi tên của Áp-ram thành Áp-ra-ham. Trong Thánh Kinh nhiều người được đổi tên lắm.

Minh họa: Trong những chương kế tiếp chúng ta sẽ thấy Gia-cốp sẽ được đổi tên thành Y-sơ-ra-ên.
Ông Phi-e-rơ trước đó tên là Si-môn và sau đó được đổi tên thành Sê-phê có nghĩa là Phi-e-rơ nghĩa là đá.

Ở trong Thánh Kinh khi Chúa đổi tên một người là Chúa trao một sứ mạng mới cho người đó.

Trong bản văn Thánh Kinh đã ký thuật về sự kêu gọi của Đức Chúa Trời dành cho tổ phụ Áp-ra-ham, sự kêu gọi đó hoàn toàn là từ Đức Chúa Trời mà đến.
Khởi đầu của sự kêu gọi là từ phía Đức Chúa Trời chứ không phải là từ phía con người. Khi mình thấy sự kêu gọi là mình phải hiểu chính Chúa đi bước trước, ơn gọi thiên triệu, ơn gọi làm Mục sư chẳng hạn.

Người ta hầu việc Chúa, làm Mục sư không phải là do cái cố gắng của bản thân mình, chúng ta chỉ là đáp ứng lại sự kêu gọi của Chúa mà thôi. Chứ còn tiếng gọi và ơn kêu gọi trước hết là đến từ Đức Chúa Trời.
Ở đây cũng vậy, khi Chúa kêu gọi Áp-ra-ham và Ngài hứa sẽ làm cho ông thành một dân lớn.
Chúng ta chú ý đến câu 2-3 “ Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.”

Để trở thành một dân lớn thì Áp-ra-ham phải có hậu duệ, phải có người nối dõi chứ, nếu không có người nối dõi thì lấy đâu ra mà dân lớn, khi chúng ta đọc tiếp sách Sáng-thế-ký thì mình thấy ông chẳng có con cái gì.

Chúng ta thấy câu chuyện này nó thu hút mình là bởi vì phải có sự can thiệp của chính Đức Chúa Trời thì lời hứa này mới được thực hiện.
Và gắn với hậu duệ là đất đai, và lời hứa mà Chúa dành cho Áp-ra-ham đó không chỉ là dành cho cá nhân của ông, mà là nhờ ông mà mọi dân tộc trên đất này được chúc phước. Đó là về phía Đức Chúa Trời, còn về phía tổ phụ Áp-ra-ham thì Thánh Kinh ghi nhận làm sao? Cái thái độ của Áp-ra-ham.

II. Lời đáp trả của Abraham

Chúng ta để ý câu 4: “ Rồi, Áp-ram đi, theo như lời Đức Giê-hô-va đã phán dạy;”
Tác giả của thư Hê-bơ-rơ diễn tả về Áp-ra-ham như sau: “ Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi, đi đến xứ mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: người đi mà không biết mình đi đâu.” ( Hê-bơ-rơ 11: 8)

Ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ cần Chúa bảo mình đi thì mình đi thôi, không cần biết mình đi đâu. Như vậy cái thái độ này nó diễn tả một sự vâng phục tuyệt đối của tổ phụ Áp-ra-ham.

Nó diễn tả cái thái độ trọn vẹn của tổ phụ Áp-ra-ham đối với Đức Chúa Trời, Chúa gọi thì tôi lên đường, Chúa gọi thì tôi đi thế thôi. Còn đi đến đâu, điều gì sẽ xảy ra, tôi không cần biết, mọi sự là ở nơi Chúa.

Bài thánh ca: Tôi không biết ngày mai sẽ thế nào?

Một điều rất lạ lùng, chúng ta để ý mà xem, Thánh Kinh của người Tin lành được chia ra thành hai phần lớn: Cựu Ước và Tân Ước.

Sau 11 chương đầu của sách Sáng-thế-ký là nói đến nguồn gốc của vũ trụ và con người và sang chương 12 là nói đến tổ phụ Áp-ra-ham. Cho nên có thể coi như là khởi đầu của thời kỳ Cựu Ước là tổ phụ Áp-ra-ham.

Trong Tân Ước thì nói đến Chúa Giê xu, cho nên, hai khuôn mặt mở đầu cho hai giao ước, giao ước cũ và giao ước mới, cả hai vị tổ phụ đó là sống đức tin tuyệt đối.
Phó thác trọn vẹn nơi Đức Chúa Trời, cho nên đức tin là chủ đề đặc biệt được nhấn mạnh trong câu chuyện về ơn kêu gọi của tổ phụ Áp-ra-ham.
Chính vì vậy, tổ phụ Áp-ra-ham là tổ phụ mẫu mực cho chúng ta trong đời sống đức tin.

Minh họa: Nếu chúng ta đặt mình vào trong bối cảnh lúc bấy giờ khi Ngài kêu gọi thì chắc chắn chúng ta thế nào cũng hỏi vậy thì Chúa muốn đưa con đi đâu? Và nếu Chúa bảo mình đi đến một chỗ nào nó tốt đẹp thì mình mới đi, còn nếu Chúa bảo mình đi đến chỗ nào khó khăn, khó thở thì chắc mình từ chối thôi.

Thường thường đức tin của chúng ta có điều kiện, chứ nó chưa phải là sự phó thác trọn vẹn ở nơi Đức Chúa Trời.

Sau này, chúng ta học về thánh Phao lô chúng ta sẽ thấy ông dùng cái từ đó là: Sự vâng phục của đức tin.

Đức tin là gì? là thưa vâng với Lời của Chúa, Chúa cất tiếng gọi, Chúa phán, tôi thưa vâng đó là đức tin.
Đức tin là thưa vâng đối với Lời của Chúa.
Minh họa: Khi thiên sứ báo tin cho bà Ma-ri thì bà nói: Xin sự ấy xảy ra như điều Chúa hứa, có nghĩa là bà xin vâng với Lời của Chúa.
Tổ phụ Abrham mãi mãi là mẫu mực cho đời sống đức tin của mọi tín hữu.

III. GIAO ƯỚC VỚI ABRAHAM
Sáng-thế-ký 15:7-11 Ở nói đến lời hứa và giao ước của Đức Chúa Trời, chúng ta thấy Thánh Kinh mô tả làm sao? Chúng ta cùng đọc.
Chúng ta để ý thấy Chúa bảo Áp-ra-ham kiếm cho Chúa một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con cu rừng và một con bồ câu con. Thế rồi Áp-ra-ham sẻ đôi ra đặt nửa này đối diện với nữa kia.
Ở đây là một nghi thức ký kết một giao ước mà người xưa người ta thực hiện. Những con vật đó được sẻ đôi, đặt hai bên. Rồi hai bên mà ký kết giao ước đó sẽ đi qua, đi lại ở giữa để nói lên điều gì?
Để nói rằng mình phải giữ lời giao ước đó mà nếu mình không giữ lời giao ước đó thì số phận của mình sẽ giống như những con vật này này, sẽ bị sẽ đôi ra. Cho nên, ý kết giao ước là một điều rất quan trọng.

Chúng ta đọc tiếp câu 17 sẽ thấy “ Khi mặt trời đã lặn, thình lình sự tối mịt giáng xuống; kìa, có một lò lớn khói lênvà một ngọn lửa loè ngang qua các xác thịt đã mổ.”

Có một lò lớn khói lênvà một ngọn lửa loè, lửa ở đây là hình ảnh, là dấu chỉ sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời đi ở giữa những con vật đã bị sẻ đôi, có nghĩa rằng Đức Chúa Trời ký kết giao ước với tổ phụ Áp-ra-ham.
Ngay trong câu 18 thì viết “ Ngày đó, Đức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram ”
Đấy chính là cái nghi thức kỳ kết giao ước là như vậy.

Rồi câu 12 thì viết “ Vả, khi mặt trời vừa lặn, thì Áp-ram ngủ mê; nầy một cơn kinh hãi, tối tăm nhập vào mình người.”  
Câu này nó diễn tả ông Áp-ra-ham đi vào chạng thái ngưng hoạt động trong thể lý của con người để được dẫn vào trong mặc khải của Đức Chúa Trời.
Được dẫn vào trong cuộc gặp gỡ với Đức Chúa Trời.

Đọc lời này, chúng ta nhận thấy Đức Chúa Trời vận dụng, và dùng những hình ảnh, phong tục, tập quán để giúp cho con người hiểu về Ngài.

Cái giao ước được nói đến ở đây nó như là một hợp đồng, khi nói đến hợp đồng nó có nghĩa là cả hai bên có quyền lợi và có trách nhiệm.
Về phía Đức Chúa Trời thì trách nhiệm ra làm sao và về phía Áp-ra-ham thì trách nhiệm ra làm sao?
Và trong chương 17:5 Chúa đổi tên từ Áp-ram thành Áp-ra-ham nó diễn tả một mối quan hệ mới với Đức Chúa Trời.
Và ý nghĩa tên của Áp-ra-ham có nghĩa là cha của nhiều dân tộc.

Một điểm nữa ở chương 17:7 “ Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, và cùng hậu tự ngươi trải qua các đời; ấy là giao ước đời đời, hầu cho ta làm Đức Chúa Trời của ngươi và của dòng dõi ngươi.”

Chúng ta chú ý ở đây là Chúa không chỉ lập giao ước với cá nhân Áp-ra-ham mà còn với dòng dõi của Áp-ra-ham, và cái giao ước đó là cái giao ước đời đời, vĩnh cửu.

Cũng ở trong chương 17 nói đến dấu hiệu, dấu chỉ của lập giao ước là cắt bì, chúng ta đọc ở câu 14 “ Một người nam nào không chịu phép cắt bì nơi xác thịt mình, sẽ bị truất ra khỏi ngoài dân sự mình; người đó là kẻ bội lời giao ước ta.”

Người Do thái rất tự hào về cái căn tính của dân tộc mình, cái gì làm cho người Do thái là người Do thái, cái gì nó làm cho tôi là dân của Chúa, còn dân ngoại nó không phải là dân của Chúa. Có một dấu hiệu rõ ràng đó là việc cắt bì.

Nếu anh chịu phép cắt bì thì anh mới là người Do thái, là dân của Chúa, còn nếu anh không chịu cắt bì thì anh không phải là dân của Chúa.
Sau này mình đọc Thánh Kinh Tân Ước, đọc thư của sứ đồ Phao lô mình sẽ thấy nó lại được nhắc đến và đặt ra.
Cái người Do thái chịu cắt bì thế người không phải Do Thái tức là dân ngoại người ta tin Chúa Giê xu người ta có cần phải cắt bì không?

IV. Ismael chào đời
Sáng-thế-ký 16: 1-2  Vả, Sa-rai, vợ của Áp-ram, vẫn không sanh con; nàng có một con đòi Ê-díp-tô, tên là A-ga. Sa-rai nói cùng Áp-ram rằng: Nầy, Đức Giê-hô-va đã làm cho tôi son sẻ, vậy xin ông hãy lại ăn ở cùng con đòi tôi, có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà có con chăng. Áp-ram bèn nghe theo lời của Sa-rai.”
Đọc cái câu chuyện này chúng ta thấy có bà nào cho phép chồng mình như vậy không? Đây là sự đề nghị của bà Sa-ra, liệu luật của Chúa có quy định như vậy không?
Thánh Kinh đã viết cách chúng ta 30 thế kỷ, 20 thế kỷ một điều quan trọng là mình phải nhìn lại thời lúc bấy giờ, phong tục, tập quán, luật lệ ra làm sao?
Khi bà Sa-ra đề nghị tổ phụ Áp-ra-ham cái điều này là bà ấy làm một điều hoàn toàn phù hợp với tục lệ lúc bấy giờ ở vùng mê-bô-sô-ta-mi.

Luật pháp thời bấy giờ cũng quy định rằng: đứa con mà nữ tỳ sinh ra là con của bà chủ và cô nữ tỳ lại phải trở về thân phận nữ tỳ của mình.
Chúng ta cho rằng rất bất công quá, nhưng chúng ta không có tranh luận đến vấn đề bất công hay không bất công mà chúng ta phải đặt mình vào bối cảnh lúc bấy giờ.
Minh họa: Việt Nam chúng ta 100 năm trở về trước, các cụ từng nói: Trai thì năm thê, bẩy thiếp, gái thì chỉ chính chuyên có một chồng. Mà các cụ thời đó đâu có bảo là bất công, bây giờ thì mình bảo bất công. Mình đặt mình vào cái thời điểm đó để mình hiểu.

Tục lệ lúc bấy giờ là khi một người vợ mà son sẻ không có con, thì người vợ ấy có thể để cho người vợ ấy ăn ở với nữ tỳ, mà đứa con người nữ tỳ đó sinh ra, là con của bà chủ “vậy xin ông hãy lại ăn ở cùng con đòi tôi, có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà có con chăng” 
Con của tôi chứ không phải con của nó, thành thử bà Sa-ra bà ấy làm phù hợp với luật pháp thời đó, phù hợp với ở vùng đó.

Khi cô nữ tỳ này đi lại với ông chủ thì cô nữ tỳ này rất hãnh diện và giờ cô ấy lại còn có con nữa, bà chủ thì không có thì chắc chắn cô nữ tỳ này rất kiêu hãnh, vênh mặt.

Cô A-ga này cô có bầu và cô lên mặt, cho nên xảy ra chuyện giữa bà Sa-ra với A-ga.
Câu 6: “Áp-ram đáp cùng Sa-rai rằng: Nầy, con đòi đó ở trong tay ngươi, phân xử thể nào, mặc ý ngươi cho vừa dạ. Đoạn, Sa-rai hành hạ A-ga, thì nàng trốn đi khỏi mặt người.”

Đang trên đường đi trốn trở về Ai-cập, đang trên đường trở về Ai-cập thì thiên sứ của Đức Chúa Trời gặp A-ga an ủi cô và trong lời an ủi đó. Thiên sứ nói câu 11: “Nầy, ngươi đương có thai, sẽ sanh một trai, đặt tên là Ích-ma-ên; vì Đức Giê-hô-va có nghe sự sầu khổ của ngươi.”

Câu đó là cách tên gọi của đứa trẻ mà A-ga sẽ sinh ra, Ích-ma-ên có nghĩa là Đức Chúa Trời lắng nghe, Đức Chúa Trời đã lắng nghe lời cầu cứu của A-ga. Và đã đến nâng đỡ cô ấy.
Câu kết tiếp 12: “Đứa trẻ đó sẽ như một con lừa rừng: tay nó sẽ địch cùng mọi người, và tay mọi người địch lại nó. Nó sẽ ở về phía đông, đối mặt cùng hết thảy anh em mình.”

Câu 12 là câu mô tả tính cách con người của Ích-ma-ên.
Ngày nay người ta cho rằng Ích-ma-ên là tổ phụ của dân tộc vùng Trung Đông Ả rập.
Mà theo đạo Hồi giáo. Người ta trở về cái câu Kinh Thánh này để nói về cái khối của Ả rập.


Tất cả những câu chuyện của Ích-ma-ên muốn nói lên điều gì? Điều quan trọng nhất là ở chỗ này, Chúa hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham trở thành một tổ phụ mà có dòng dõi đông như sao trên trời như cát biển, đợi mãi trả thấy cái gì cả.

Cho nên bà vợ bà ấy sốt ruột, bà ấy bảo thôi ông đi lại với đứa nữ tỳ ấy đi. Nhưng cuối cùng cái đứa con ấy không phải là cái đứa con của lời hứa, mà chỉ là đứa con của xác thịt thôi.
Thánh Kinh nói rằng: Đó không phải là đứa con của lời hứa, chỉ là đứa con của xác thịt, mà đứa con của lời hứa là Y-sác.
Cho nên một khi Đức Chúa Trời đã hứa, thì chính Ngài sẽ thực hiện bằng quyền năng của Ngài, chứ không phải bằng những tính toán, thủ đoạn của chúng ta. Điều quan trọng nó nằm ở chỗ đó.

Nhiều khi anh chị em chúng ta cũng nóng nảy quá, nôn nả quá, mình gặp khó khăn này đến gặp khó khăn quá, mãi chẳng thấy thay đổi rồi mình sốt ruột lên, rồi mình cũng phương thế, phương cách nhân loại, phương cách của con người để giải quyết.
Minh họa: Mày đánh tao gẫy một cái răng thì tao chơi hai cái, mày lấy của tạo một con mắt tao lấy của mày cả hai con, thế gian nó gian dối thì mình vừa mánh khóe, vừa gian dối. Người ta dùng bùa phép của Ma quỷ thì mình cũng đi dùng bùa phép của Ma quỷ, người ta ăn của cúng thần tượng thì mình cũng ăn của cúng, người ta nói ngồi lại nói chuyện xấu thì mình cũng vào hùa theo để nói xấu Hội Thánh.

Có thể mình đạt được mục đích, nhưng mục đích đó chỉ là trước mắt, mục đích đó chỉ là thỏa mãn xác thịt mà thôi mà nó không bền vững và đẹp lòng Chúa được.
Cho nên, qua câu chuyện chúng ta học được những bài học về đời sống đức tin của chúng ta, mình phải dám tin vào lời của Chúa, phải dám phó thác vào lời của Chúa.


Và phải sống với lời Chúa ngay trong hoàn cảnh dường như là tăm tối nhất, dường như là khó khăn nhất, chính Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Ngài chứ không phải chúng ta thực hiện bằng những tính toán riêng của chúng ta.

Phải dám sống phó thác và có đủ đức tin như vậy.
Mỗi đoạn Thánh Kinh đều hàm chứa rất nhiều ý nghĩa cho đời sống chúng ta ngày hôm nay, chứ không phải câu chuyện của quá khứ mà thôi, mà mình phải lắng nghe để áp dụng vào trong đời sống đức tin của mình.


Tuần tới tiếp tục đọc chương 20-25.

© 2013 iPRESS. All rights resevered. Designed by Templateism