- Twitter 5200
- Facebook2555
- Pinterest200
- RSS4000
Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016
Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016
Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016
Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016
Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2016
Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016
Đề tài: KHAI TRÌNH VỚI CHÚA
0
Đề tài:
KHAI TRÌNH VỚI CHÚA
Kinh-thánh: Rô-ma 14:12 & I Phi-e-rơ 4:5
Câu gốc: II Cô-rinh-tô 5:10
Nhập đề:
Thưa Hội-thánh nếu hôm nay, Chúa hỏi
quý ông bà anh chị em và tôi một câu hỏi rằng: “ Tại sao con được vào thiên
đàng” thì chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Nếu Chúa hỏi rằng: “ Từ ngày con tin
Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và làm chủ cuộc đời mình đến nay thì con đã sống như
thế nào?” Chúng ta sẽ trả lời với Chúa ra sao?
Cứ
đến cuối năm, mỗi công ty, hoặc doanh nghiệp đều lo đúc kết, hoặc tính sổ xem
một năm qua họ đã thu được lợi nhuận nào?
Quý
ông bà anh chị em và tôi đến ngày trở về gặp Chúa chúng ta cũng phải khai trình
mọi việc trước mặt Chúa? Nếu chúng ta ý thức được như vậy thì chúng ta sẽ sống
có trách nhiệm với bản thân mình hơn, cẩn thận hơn, tỉnh thức hơn trong cuộc
đời này.
Sáng hôm nay, tôi xin mời quý Hội-thánh cùng học với tôi đề tài: KHAI
TRÌNH VỚI CHÚA.
Phần thứ nhất chúng ta tìm hiểu đó
là:
I.
ĐẤNG
MÀ CHÚNG TA PHẢI KHAI TRÌNH LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI
Lời Chúa trong thơ Rô-ma 14: 10-12 sứ
đồ Phao-lô khẳng định: “ Vì chúng ta hết
thảy sẽ ứng hầu trước tòa án Đức Chúa Trời. 11 Bởi có chép
rằng: Chúa phán: Thật như ta hằng sống, mọi đầu gối sẽ quì trước mặt ta, Và mọi
lưỡi sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời. 12 Như vậy, mỗi người trong chúng ta sẽ
khai trình việc mình với Đức Chúa Trời.”
Đây là một câu Kinh-thánh mà được ghi
ở bảng lớn trước cổng một nhà thờ lớn tại Mỹ.
Câu Kinh-thánh này cho chúng ta biết:
động từ “ hết thảy” và “ mỗi người”
là nói đến từng cá nhân, không ngoại trừ một ai. Cả người tin Chúa lẫn người
chưa tin, tất cả mọi người trong nhân loại này phải khai trình trước mặt Chúa.
Dù chúng ta là ai, già trẻ lớn bé,
tín đồ hay Mục-sư, dù giàu hay nghèo, văn minh hay lạc hậu bán khai hết thảy
đều phải ứng hầu trước Chúa và trả lời về mọi việc của đời mình với Đức Chúa
Trời.
Tôi sẽ khai trình với Chúa việc tôi
làm, mỗi ông bà anh chị em ngồi đây sáng hôm nay, từng người từng người một lần
lượt sẽ khai trình mọi việc trước mặt Ngài.
Minh họa: Câu chuyện trong Phúc-âm Ma-thi-ơ
26:14-30
Người được ban cho một lâng, người
được hai ta lâng, người được ban cho năm ta lâng.
Ngài đã giao cho chúng ta những của
cải, những ta lâng, ân tứ và thời gian cùng mọi thứ. Vậy chúng ta đã dùng nó và
sử dụng nó như thế nào? Đó là những câu hỏi mà chúng ta phải trả lời trước Chúa
khi về gặp Ngài. Điều này Kinh-thánh gọi đó là khai trình với Đấng Tạo Hóa.
Sứ-đồ Phao-lô nói: “ hết thày chúng
ta” “ sẽ ứng hầu trước tòa án Đức Chúa Trời” “ mỗi người trong chúng ta phải
khai trình trước mặt Chúa”
Điều đó có nghĩa là chúng ta không ai
được phép đứng vào thay chỗ của Đức Chúa Trời trong việc phán xét anh em mình,
chỉ có Đức Chúa Trời mới là quan tòa trong việc phán xét mọi người. Ngài là
quan án công bình.
Ro 14:10 10
Nhưng ngươi, sao xét đoán anh em mình? Còn ngươi, sao khinh dể anh em
mình? Vì chúng ta hết thảy sẽ ứng hầu trước tòa án Đức
Chúa Trời.
Chúng ta không phải khai trình về mọi
việc của chúng ta với con người, mà với một mình Đức Chúa Trời thôi, vì con
người không thể đứng vào chỗ của vị quan tòa công bình được. Mà tại sao con
người không có quyền đoán xét, hay phán xét nhau vì con người phán xét, hay
đoán xét theo sự suy nghĩ riêng của bản thân, theo cái gì mình thích, hoặc hợp
với mình, nhưng chỉ duy Đức Chúa Trời mới là quan án công bình mà thôi.
Minh họa: Sứ đồ Phao-lô nói trong thơ
Rô-ma 2:1 rằng: “Vậy, hỡi người kia,
ngươi là ai mặc lòng, hễ đoán xét kẻ khác thì không thể chữa mình được; vì
trong khi đoán xét họ, ngươi cũng lên án cho chính mình ngươi nữa, bởi ngươi
đoán xét họ, mà cũng làm các việc như họ.”
Hễ khi nào chúng ta tự cảm thấy mình
tức giận về tội lỗi của một ai đó là điều có thể được biện minh, thì chúng ta
phải cẩn thận. Chúng ta cần lên tiếng chống lại tội lỗi, nhưng phải làm như thế
với tinh thần khiêm nhường.
Thường thường thì những tội mà chúng ta thấy rõ ràng nhất nơi kẻ khác,
lại chính là những tội đã ăn sâu mọc rễ ngay trong chúng ta. Nếu chúng ta nhìn
kỹ chính mình, chúng ta có thể nhận thấy chính mình cũng phạm vào những tội
tương tự mà về phương diện xã hội, chúng ở dưới những hình thức chấp nhận được.
Thí dụ một người hay ngồi lê đôi mách lại thường phê phán người khác ngồi lê
đôi mách lẽo mình.
Lúc bức thư của Phao-lô được đọc tại
Hội Thánh Rô-ma, chắc nhiều người đã gật đầu khi nghe ông lên án những kẻ thờ
thần tượng, theo thói đồng tính luyến ái, và hung dữ. Nhưng có lẽ điều gây ngạc
nhiên nhất cho người nghe, là khi ông quay lại nói với họ: “Anh em cũng không thể chữa mình được, vì anh em làm các việc như họ!”
Phao-lô muốn nhấn mạnh rằng chẳng hề
có ai thánh thiện đủ để tự cứu lấy mình. Nếu
chúng ta muốn tránh được sự hình phạt để cùng sống đời đời với Chúa Cứu Thế,
thì mọi người chúng ta, cho dù vốn đã từng giết người, hỗn láo hay thành thật,
siêng năng chăm chỉ hay làm một công dân lương thiện, đều phải hoàn toàn trông
cậy vào ân điển của Đức Chúa Trời.
Phao-lô không bình luận xem có những
tội nào là tệ hại hơn tội khác. Bất luận một tội nào cũng đủ để dẫn chúng ta
đến chỗ trông cậy vào Chúa Cứu Thế Giê-xu để được cứu rỗi và được sự sống vĩnh
hằng.
Phao-lô cho chúng ta biết chỉ có Chúa
mới là Đấng duy nhất đứng vào chỗ của vị thẩm phán tối hậu mà thôi.
Chúng ta đọc tiếp Rô-ma 2: 2 “Vả, chúng ta biết rằng sự phán xét của
Đức Chúa Trời đối với kẻ làm những việc như thế, là hiệp với lẽ thật. 3 Hỡi
người đoán xét kẻ phạm những việc dường ấy mà mình cũng phạm kia, vậy ngươi
tưởng rằng chính mình ngươi sẽ tránh khỏi sự phán xét của Đức Chúa Trời sao? 4
Hay là ngươi khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung Ngài,
mà không nhận biết lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem ngươi đến sự ăn năn sao?”
( Rô-ma 2:1-6)
Phao-lô nói Đức Chúa Trời là Đấng
phán xét là hiệp với lẽ thật, sự phán xét của Ngài là sự phán xét công bình.
Minh họa: Ngày hôm qua thế giới đã
cho ra mắt một Camera đường phố, rất nhỏ, ghi lại tất cả đoạn đường và những gì
diễn ra trên đường phố, chỉ cần nhìn vào màn hình nhỏ xíu đó thì sẽ biết được
điều gì xảy ra.
Chẳng hạn, như không may có hai xe
đâm vào nhau, ra tòa ai cũng phân vua mình đúng người kia sai nhưng để biết ai
đúng ai sai họ chỉ cần mở cái Camera nhỏ xíu ấy lên, ghi lại tốc độ của xe, làn
đường của xe, chiếu đi của xe. Dựa vào đó mà quan tòa sẽ phán quyết.
Mai đây chúng ta mỗi chúng ta ứng hầu
trước tòa án tối cao của Chúa để trả lời về mọi việc của mình, thì không có
chuyện biện hộ rằng: Ví lý do này, hoặc do nơi, tại bởi cho nên con mới làm như
vậy.
Sẽ có một video quay lại tất cả mọi
hành động và có một quyển xổ ghi lại tất cả mọi lời nói của chúng ta. Lúc đó
chúng ta không thể nào chối cãi được. Vì Ngài là vị thẩm phán công bình, không
bao giờ xử nhầm hoặc vu cáo ai cả.
Chúa xét xử công bình vì Ngài thấy
được tất cả trong chỗ kín nhiệm của loài người. Vì loài người thấy bề ngoài còn
Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng.
Ro 2:16 16 Theo
Phúc âm tôi truyền giảng, đến ngày Thượng Đế đã định, Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ
xét xử mọi tư tưởng, hành động kín đáo của loài người.[HĐ]
Ro 2:16 16 Người ta sẽ thấy rõ điều đó trong ngày của Đức Chúa Trời, vì Đấng Cứu-thế Giê-su, sẽ phán xét tất cả những tư tưởng thầm kín của con người, theo như Tin Mừng tôi rao giảng.
[ĐNB]
-
Ma-thi-ơ
10:26.
Mình đi những đâu, mình ngồi chỗ nào,
mình làm những gì, dù cho không ai biết nhưng Chúa thì biết hết. Mình có thể
lòe được con người chứ không thể nào lòe được Chúa.
Minh họa: Mình nhiều khi dâng hiến
nhiều nhiều và trên đường về nhà tự hỏi rằng: Không biết hôm nay Chúa có biết
mình dâng 1/10 không nhỉ. Nếu Ngài biết thì chắc Ngài phải cảm ơn mình và ban
phước cho mình.
Minh họa: Câu chuyện Giô-sép bị vợ
của Phô-ti-pha cám dỗ. Tưởng không có ai biết, nhưng Giô-sép đã nói: Tôi không
thể làm điều đại ác trước mặt Chúa, trong khi vợ của Phô-ti-pha không nhìn thấy
Chúa đâu hết. Nhưng Giô-sép thì biết Chúa đang có mặt ở đó với ông.
Người tin Chúa thì luôn cảm nhận và
biết rõ Chúa hiện diện với mình, còn người không tin thì chẳng biết gì về sự
hiện diện của Ngài hết.
Nếu chúng ta biết rõ Chúa là quan án
công bình, thánh khiết và nghiêm ngặt trong việc phán xét, và chẳng có gì có
thể dấu khỏi Ngài được thì thái độ của chúng ta bây giờ phải nói như Phao-lô
trong thơ Phi-líp 2: 12 “ ai lấy lòng sợ
sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình.”Chúng ta phải cẩn thận hơn trong cách
sống, trong việc làm, vì sự cứu chuộc dựa vào Chúa Giê-xu, còn sự phán xét thì
dựa vào cách ăn ở của mình.
Chúng ta phải có bổn phận là phải khai trình về mọi việc của chúng ta với
Chúa nhưng dựa trên Kinh-thánh thì có 3 điều chính yếu mà mỗi chúng ta phải
khai trình đó là:
1.
Chúng ta phải khai trình tất cả mọi lời nói của mình
với Chúa.
Lời Chúa trong Ma-thi-ơ 12: 36-37 “Vả, ta bảo các ngươi, đến ngày phán xét,
người ta sẽ khai ra mọi lời hư không mà mình đã nói; 37 vì bởi lời nói mà ngươi
sẽ được xưng là công bình, cũng bởi lời nói mà ngươi sẽ bị phạt.”
Trong ngày sau rốt, tất cả mỗi người
chúng ta sẽ khai mọi lời nói của chúng ta ở trước mặt Đức Chúa Trời.
Chúng ta đã nói gì? Có thể chúng ta
nói sau lưng người khác có thể người ta không biết, nhưng chúng ta phải nhớ Đức
Chúa Trời nghe, Đức Chúa Trời thấy, Đức Chúa Trời hiểu. Đức Chúa Trời biết tất
cả mọi điều chúng ta đã nói.
Chúng ta phải khai trình về tất cả
mọi lời nói của mình trước mặt Chúa, chúng ta phải nhớ mọi lời chúng ta nói
ngày hôm nay sẽ có kết quả trong ngày sau rốt.
Chúa đã ghi lại hết không bao giờ
chúng ta chối được trước mặt Ngài.
Bởi lời nói mà chúng ta được xưng
công bình, cũng bởi lời nói mà chúng ta sẽ bị phạt. Bởi vậy mà cho nên chúng ta
phải cẩn thận hơn trong mọi lời nói của chúng ta.
Thưa anh chị em! Nhiều khi chúng ta
nói mà không có đem đến sự gây dựng, chúng ta nói để gây chia rẽ, chúng ta nói
để đâm vào người khác, làm người khác đau, làm người khác tổn thương, làm người
khác mất ăn, mất ngủ.
Cầu xin Chúa cứu môi miệng chúng ta
để chúng ta không nói những lời hư không. Những lời nói tác hại đến người khác.
Nhưng mà chúng ta học nơi tinh thần của sứ đồ Phao-lô. Xin Chúa cho chúng ta
tập tránh đi những lời nói đem lại những đổ vỡ, tránh đi những lời nói đem lại
những đau thương cho anh em mình.
Lời của Chúa dạy chúng ta trong thơ
Ê-phê-sô 4:29 “ Chớ có một lời dữ nào ra
từ miệng anh em; nhưng khi đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có
ích lợi cho kẻ nghe đến.”
Vì phải khai trình mọi lời nói của
mình trước mặt Chúa cho nên hãy nói ra những lời lành có ích cho kẻ nghe đến.
Con người của mỗi chúng ta thường chê
người khác nhiều hơn là khen người ta, chúng ta hãy đổi lại là hãy nói những
lời khích lệ, nâng đỡ anh em mình. Trong chúng ta ai cũng thiếu xót, yếu đuối
nhưng chúng ta tìm ra những lời nói lành và có ích để nâng đỡ anh em mình, để đem
anh em đến gần với Chúa hơn, yêu mến Chúa hơn. Đừng nói những lời để chà đạp
anh em mình. Xin Chúa dạy chúng ta nói những lời tích cực đừng nói những lời
tiêu cực.
Chúa Giê-xu phán rằng: “37 vì bởi lời nói mà ngươi sẽ được xưng là
công bình, cũng bởi lời nói mà ngươi sẽ bị phạt.”
Chúng ta tập làm sao những lời nói từ
môi miệng chúng ta phát ra những lời ân hậu, nhân từ.
Lời của Chúa trong thơ Cô-lô-se 4:6
Phao-lô cũng dạy chúng ta rất rõ “Lời nói
anh em phải có ân hậu theo luôn, và nêm thêm muối, hầu cho anh em biết nên đối
đáp mỗi người là thể nào.”
Trong nguyên nghĩa: Lời nói anh em
phải có ân điển, trong tiếng Việt chúng ta dịch là ân hậu.
Ân điển, hay ân hậu có nghĩa là ban
cho nhưng không. Lời nói của anh em đúng ra người đó đáng khiển trách, đáng lên
án. Nhưng lời nói của chúng ta có ân hậu khích lệ họ, giúp cho họ nhìn thấy
những khiếm khuyết. Và đem họ đến sự phục hồi với Chúa.
Đáng phải nói nặng nhưng không nói
nặng mà nói lời yêu thương, khích lệ để anh em mình chạy đến với Chúa.
2. Mỗi chúng ta phải khai trình về mọi
tiền bạc của mình.
Chúa ban cho chúng ta tiền bạc để
chúng ta quản lý, sử dụng,
“Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn
mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quan lý trung tín giữ các thứ ơn
của Đức Chúa Trời.” (I Phi-e-rơ 4:10)
Trong Ma-thi-ơ 25:14-30, Chúa Jesus
kể một ví dụ: Một người chủ khi đi phương xa (Chúa Jesus đến thế gian, chịu
chết, sống lại và đã thăng thiên về trời). Người chủ trao của cải cho các đầy
tớ của mình (Chúa ban cho chúng ta các ân tứ để phục Ngài, chúng ta được gọi
là đầy tớ của Chúa). Mỗi người đầy tớ được nhận số của
cải khác nhau tùy theo khả năng mỗi người: người nhận được 5 ta-lâng, người
nhận được 2, người nhận được 1 (Chúa biết rõ khả năng của mỗi người, Chúa ban
ân tứ nào cho người nào là quyền quyết định của Chúa, không phải của chúng ta).
Khi người chủ trở về để tính sổ (Khi Chúa Jesus trở lại tiếp rước tín đồ, chúng
ta sẽ phải khai trình với Chúa cách chúng ta dùng các ân tứ Chúa ban).
Người đầy tớ làm lợi cho chủ mình
được chủ khen: “Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, được lắm, ngươi đã trung
tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng
của Chúa ngươi.” (Ma-thi-ơ 25:21). Chúng ta nhận thấy trong lời khen, người chủ
không chú ý đến nguồn lợi mà người đầy tớ mang đến nhưng chú ý đến sự trung tín
của người đầy tớ.
Chúng ta chú ý: Các ta-lâng mà những người đầy tớ nhận được là tài sản của người
chủ, chứ không phải của người đấy tớ. Các ta-lâng được giao cho đầy tớ
là để làm sinh lợi cho người chủ. Các người đầy tớ được tự do sử dụng tài sản
của chủ theo ý của mình. Tương tự như
vậy, Cơ-đốc nhân ngày nay là những người quản lý hay quản trị (steward) ân tứ
Chúa ban cho để phục vụ cho Chúa. Chúng ta được tự do sử dụng ân tứ Chúa ban
nhưng đồng thời chúng ta phải chịu trách nhiệm về cách chúng ta sử dụng ân tứ.
Chúng ta sử dụng các ân tứ một cách trung tín sẽ được Chúa ban thưởng.
"Vì
Đức Chúa Trời sẽ đem ra xét xử mọi việc, kể cả những việc kín giấu, dù thiện
hay ác" (Truyền Đạo 12:14 BTTHĐ).
II.
LÝ DO PHẢI KHAI TRÌNH VỚI CHÚA
-
Vì
để nhận phần thưởng hoặc là để chịu hình phạt
Trong thơ II Cô-rinh-tô 5:10 sứ đồ
Phao-lô viết: “Bởi vì chúng ta thảy đều
phải ứng hầu trước tòa án Đấng Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo
điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt.”
Nhiều con cái Chúa ngày nay hiểu lầm
về sự phán xét của Chúa đối với tín đồ khi cho rằng ngày Chúa phán xét là ngày
Chúa ban nước thiên đàng cho người tin nhận Chúa Jesus và trừng phạt người từ
chối ơn cứu rỗi của Ngài trong hồ lửa đời đời. Kinh Thánh cho biết sự phán xét
của Chúa đối với con cái của Ngài là để ban thưởng(reward) cho họ
chiếu theo cách họ đã sống và những gì họ đã làm, chứ không phải là định
tội hay kết tội (condemn) người tín đồ, để xem họ có đủ tiêu chuẩn vào
Thiên đàng hay không. Vì những ai thật lòng tin nhận Chúa Jesus là Cứu Chúa của
mình thì đương nhiên được cứu, Rô-ma 8:1 đã khẳng định: “Cho nên hiện
nay chẳng còn có sự đoán phạt nào (hay định tội, condemn) cho
những ai ở trong Đức Chúa Jesus Christ.” Hoặc Giăng 3:18:“Ai tin
Ngài thì chẳng bị đoán xét (nên dịch là “định tội”, condemn) đâu, ai không tin
thì đã bị đoán xét (condemn) rồi”.
Đấng Christ sẽ đứng ở chỗ "bema
" hay "khán đài" đó. Nếu sau khi được tái sanh (Giăng 3:3),
chúng ta sống một đời sông trung tín hầu việc Chúa, hay làm việc tốt thì Đấng
Christ sẽ thưởng cho chúng ta tại tòa án của Ngài.
Tại tòa án của Đấng Christ, hoặc
chúng ta sẽ được phần thưởng, hoặc các việc làm của chúng ta sẽ bị đốt cháy như
cỏ khô. Chúng ta có thê có rât ít phần thưởng hoăc không nhận được gì cả.
Mọi người trong chúng ta
đều phải ứng hầu trước mặt Chúa để chịu phán xét. Không ai thoát khỏi sự phán
xét đó cả. Kinh Thánh cho biết có ba tòa án - Tòa Án cho Các Quốc Gia, Tòa Án
Đấng Cơ Đốc và Tòa Án Trắng Vĩ Đại.
Tòa Án cho Các Quốc Gia
là lúc Chúa tách rời người ta như người chăn phân chiên và dê (Ma-thi-ơ
25:31-33). Tòa án này xảy ra sau Cơn Đại Nạn với mục đích xác định ai được vào
nước nghìn năm bình an.
Tòa Án Đấng Cơ Đốc là nơi
các Cơ Đốc nhân đến để "nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã
làm lúc còn trong xác thịt" (2 Cô-rinh-tô 5:10). Đây không phải là tòa
hình phạt vì đối với Cơ Đốc nhân, sự công chính của Đức Chúa Trời đã được đáp
ứng đầy trọn tại thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Qua Chúa Giê-xu Cơ Đốc, tội
nhân được kể là công chính. Tại tòa án này, Cơ Đốc nhân sẽ nhận lấy phần thưởng
vì "công việc của mỗi người sẽ bày tỏ ra... Ví bằng công việc của ai xây
trên nền được còn lại, thì thợ đó sẽ lãnh phần thưởng mình" (1 Cô-rinh-tô
3:13-14).
Tất cả những người không
tin nhận Chúa sẽ ứng hầu trước "một tòa lớn và trắng cùng Đấng đang ngồi ở
trên" (Khải Huyền 20:11) để chịu xét xử tùy theo việc họ đã làm (câu 13).
Những người không có tên trong sách sự sống sẽ bị quăng vào hồ lửa đời đời (câu
15).
Có người tin ba cuộc xét
xử này là một, mặc dù các tòa án này được đề cập đến nhiều lần khác nhau trong
Kinh Thánh, nhưng kết quả của cuộc xét xử là người tin Chúa sẽ được hưởng Nước
Trời và được phần thưởng, còn người không tin sẽ bị đoán phạt đời đời nơi hồ
lửa (Khải Huyền 20:11-15; Ma-thi-ơ 25:46).
"Theo ơn Đức Chúa Trời ban cho
tôi, tôi đã lập nền như một tay thợ khéo, mà có kẻ khác cất lên trên, nhưng ai
nấy phải cẩn thận về sự mình xây trên nền đó. .. Nếu có ai lấy vàng, bạc, bửu
thạch, gỗ, cỏ khô, rơm rạ mà xây trên nền ấy, thì công việc của mỗi người sẽ
bày tỏ ra.
Ngày đến sẽ tỏ tường công việc đó. Nó
sẽ trình ra trong lửa, và công việc mỗi người đáng giá nào lửa sẽ chỉ ra. ..
Nếu công việc của họ bị thiêu hủy, thì mất phần thưởng. Còn về phần người đó sẽ
được cứu, song dường như qua lửa vậy " (ICôr 3:10-15).
Phaolô nói rằng: "Nếu công việc
của người nào đó còn lại thì họ sẽ được phần thưởng".
- Sự Cứu Rỗi Ban Cho Nhưng Không
- Phần Thưởng Là Do Công Khó Mà Đạt
Được
Phần thưởng là do công việc của tín
đồ (Mat 16:27).
Các câu Kinh Thánh trong ICôr 3:8-15
nói rõ về phần thưởng.
Bị Hổ Thẹn Lúc Ngài Đến
Đức Chúa Jêsus Christ ban cho mỗi tín
đồ một công việc để làm. Nếu chúng ta bỏ qua mạng lênh của Ngài, chúng ta sẽ
rất đau buồn và sợ hãi khi đứng trước mặt Ngài tại nơi phán xét. Hãy chú ý lời
cảnh báo của Giăng:
"Hỡi các con bé mọn ta, hãy ở trong Ngài, hầu cho nếu Ngài hiện đến,
chúng ta cũng đầy sự vững lòng, không bị hổ thẹn " (IGiăng 2:28).
Từ "hổ thẹn" có nghĩa "giật lùi lại vì sợ hãi và mất
mặt".
Một số tín đồ sẽ giật lùi khỏi Đấng
Christ trong sự xấu hổ lúc Ngài hiện đến vì đời sống của họ không có kết quả.
Họ không kết quả vì họ không "đâm rễ sâu" trong Đâng Christ (xem Cô
2:7; Mat 13:3-10, 18-23).
Trong năm đầu tiên của chức vụ, một
vị mục sư nọ ngồi bên cạnh một người bạn sắp chết của ông. Khi họ nói chuyện về
việc ra đi của người sắp chết, nước mắt ông ấy tuôn chảy. Vị mục sư tưởng rằng
người bạn của mình sợ chết nên ông cố nói những lời an ủi.
Nhưng người bạn nói: "Tôi không
sợ chết, tôi chỉ thấy hổ thẹn khi phải chết". Ông tiếp tục nói rằng Đấng
Christ là Cứu Chúa của ông, nhưng ông chỉ sống cho chính mình, và bây giờ ông
sắp gặp Đức Chúa Jêsus Christ với hai bàn tay trắng. Cuộc đời của ông đã hiện
ra trước mắt ông như "gỗ, cỏ khô và rơm rạ ". Ông được cứu nhưng ông
không có môt công việc có giá trị đời đời cụ thể nào để dâng cho Chúa cả (ICôr
3:15).
Trong Thánh-kinh thì khẳng định rằng:
Gieo gì gặt lấy.
“Chớ hề dối mình; Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống
chi, lại gặt giống ấy. 8 Kẻ gieo cho xác thịt, sẽ bởi xác thịt mà gặt sự hư
nát; song kẻ gieo cho Thánh Linh, sẽ bởi Thánh Linh mà gặt sự sống đời đời. 9 Chớ
mệt nhọc về sự làm lành, vì nếu chúng ta không trễ nải, thì đến kỳ, chúng ta sẽ
gặt. 10 Vậy, đương lúc có dịp tiện, hãy làm điều thiện cho mọi người, nhứt
là cho anh em chúng ta trong đức tin.” ( Ga-la-ti 6:7-10)
Kh 22:12 “Nầy, ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với ta, để trả cho mỗi
người tùy theo công việc họ làm.”
Đây là một sự khích lệ lớn lao, bởi
phần thưởng này không phải được trao bởi con người, mà được chính Chúa Giêxu,
Đấng Tạo hóa ban cho. Trong câu Kinh Thánh nói đến ở trên, người ban phần
thưởng cho bạn không phải là một người bình thường, đó là Chúa Giêxu, là Đức
Chúa Trời, Đấng đã tạo dựng nên bạn và tôi. Thật là vinh dự, và chắc chắn không
có vinh dự nào có thể sánh bằng. Đó là điều quá tuyệt vời.
“Bởi lòng ngươi cứng cỏi, không ăn năn, thì tự chất chứa cho mình sự giận
về ngày thạnh nộ, khi sẽ hiện ra sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời, 6 là
Đấng sẽ trả lại cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” ( Rô-ma 2:6)
Thưa quý ông bà anh chị em! Nếu kẻ
công bình và gian ác cùng chết một ngày và số phận như nhau thì chắc chắn đã
không có
“ Ai đã làm
lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị xét đoán.” ( Giăng 5:29)Ma-thi-ơ 16: 27
III.
THỜI
ĐIỂM KHAI TRÌNH VỚI CHÚA
Vua Sa-lô-môn đã nói trong sách
Truyền-đạo rằng: “Hỡi kẻ trẻ kia, hãy vui
mừng trong buổi thiếu niên, khá đem lòng hớn hở trong khi còn thơ ấu, hãy đi
theo đường lối lòng mình muốn, và nhìn xem sự mắt mình ưa thích, nhưng phải
biết rằng vì mọi việc ấy, Đức Chúa Trời sẽ đòi ngươi đến mà đoán xét.”
( Truyền đạo 11:9)
Hiện nay chưa phải là lúc Chúa thi
hành sự phán xét đối với tín đồ, chúng ta có thể thấy những chuyện bất công xãy
ra trong cộng đồng những người tin Chúa (ví dụ: có những người tin Chúa làm
việc sai trái mà vẫn bình an vô sự, trong khi những người kính sợ Chúa thì gặp
khó khăn v.v…) Nhưng sẽ đến thời điểm Chúa phán xét tất cả mọi người cách công
bình, mỗi người sẽ nhận lấy hậu quả của việc mình làm. Chúng ta biết được thời
điểm của sự phát xét căn cứ vào các phần Kinh Thánh sau:
“Song khi ngươi đãi tiệc, hãy mời
những kẻ nghèo khó, tàn tật, què, đui, thì ngươi sẽ được phước, vì họ không có
gì để trả lại cho ngươi; đến kỳ kẻ
công bình sống lại ngươi sẽ được trả.”
(Lu-ca 14:13-14)
Theo lời dạy trên, những ai bày tỏ
tình thương với những người khó khăn sẽ được Chúa ban thưởng lại vào thời điểm
“người công bình sống lại”. Vậy, lúc nào người công bình (là những người tin
Chúa Jesus) sống lại? Chúng ta có câu giải đáp sau:
“Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của
thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời
giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước
hết.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16)
“Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở
lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi
không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:17)
Lúc những người công bình sống lại là
lúc Chúa Jesus đến trên không trung kêu họ sống lại, và những người tin Chúa
đang sống vào thời điểm đó sẽ được biến hóa thân thể (I Cô-rinh-tô 15:52) và sẽ
cùng với họ được Chúa cất lên không trung. Như vậy, Chúa Jesus sẽ thi hành sự
phán xét ngay sau khi Chúa đến tiếp rước Hội Thánh lên trời. Chúa Jesus phán:
“Nầy Ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với ta, để trả cho mỗi người tùy
theo công việc họ làm.” (Khải Huyền
22:12)
-
Phải
ứng hầu trước mặt Chúa ( Tức là khi về gặp Chúa)
IICo 4:14 “ vì biết rằng
Đấng đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại cũng sẽ làm cho chúng tôi sống lại với
Đức Chúa Jêsus, và làm cho chúng tôi ứng hầu với anh
em trước mặt Ngài.”
“Bởi lòng ngươi cứng cỏi, không ăn năn, thì tự chất chứa cho mình sự giận
về ngày thạnh nộ, khi sẽ hiện ra sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời, 6 là
Đấng sẽ trả lại cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” ( Rô-ma 2:1-6)
Sự phán xét của Chúa và sự tự phán xét chính mình.
Một vấn đề thực tế trong cuộc sống
cần được giải đáp: Nếu một tín đồ đã từng phạm một tội quan trọng nào đó, chiếu
theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh nêu trên, tội lỗi đó sẽ bị phơi bày ra trong ngày
Chúa phán xét, như vậy, làm thế nào người đó có thể tránh khỏi sự phán xét của
Chúa? Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, Chúa biết rõ chúng ta sẽ bị xấu hổ khi
tội chúng ta bị đem ra ánh sáng, nên Chúa ban cho một giải pháp: Đó là sự tự
phán xét chính mình (self-judgment).
“Nếu chúng ta biết xét đoán lấy mình,
thì khỏi bị xét đoán” (For if we would judge ourselves, we should not be
judged) (I Cô-rinh-tô 15:31)
Để tránh khỏi bị Chúa xét xử trong
ngày Chúa trở lại về một tội nào đó, chúng ta phải tự làm quan án cho chính
mình ngay bây giờ, chúng ta phải tự phán xét chính mình trước ánh sáng của Lời
Chúa.
Sự tự phán xét chính mình bao gồm các
bước sau:
- Trước hết, chúng ta phải thành thật
công nhận rằng mình đã phạm tội với Chúa, đã không sống đúng theo tiêu chuẩn
Chúa dạy trong Kinh Thánh.
- Kế đến, hãy đối mặt với Chúa và
xưng tội mình qua sự cầu nguyện. Đừng xem thường sự ăn năn tội của mình. Luôn
nhớ rằng mình là một tội nhân đang đối diện với Đấng thánh khiết.
- Sau hết, cầu xin Chúa tha thứ tội
của mình một cách thành khẩn và quyết lòng từ bỏ tội lỗi.
Một khi chúng ta thành thật ăn năn
tội trước mặt Chúa, Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch tội
hoàn toàn vì Chúa hứa như vậy (I Giăng 1:9), phương đông xa cách phương tây bao
nhiêu thì Chúa cũng đem tội của chúng ta xa khỏi chúng ta bấy nhiêu (Thi Thiên
103:12), Chúa đạp tội lỗi chúng ta dưới chân Ngài, Chúa ném tội lỗi chúng ta
xuống đáy biển (Mi-chê 7:19), Chúa không còn nhớ đến tội lỗi của chúng ta nữa
(Giê-rê-mi 31:34). Như vậy, chúng ta sẽ dạn dĩ đứng trước mặt Chúa trong ngày
phán xét.
Đề tài: AN-NE NGƯỜI PHỤ NỮ YÊN LẶNG VÀ SỰ CẦU NGUYỆN
0
Đề tài: AN-NE
NGƯỜI PHỤ NỮ YÊN LẶNG VÀ SỰ CẦU NGUYỆN
Kinh-thánh:
I Sa-mu-ên 1:1-28
Lời
chào mừng:
NHẬP ĐỀ:
Thưa
Hội-thánh!
Người
Việt Nam
chúng ta thường có câu: “Ngọc nhìn lâu sẽ
tìm thấy vết. Hoa để gần sẽ hết mùi hương”. Khi hai người lúc mới yêu nhau
thì lúc nào cũng chỉ thấy cái đẹp của nhau, cái mùi thơm của nhau, chỉ thấy
cuộc sống là màu hồng. Nhưng khi về sống chung với nhau một thời gian thì sẽ
thấy cái đẹp đó biến đi đâu mất hết.
Dù
vợ hoặc chồng có đẹp đến mấy nhưng khi sống lâu sẽ thấy được họ cũng có rất
nhiều những vết và khiếm khuyết. Trong thực tế cho thấy cuộc sống gia đình không
phải lúc nào cũng bình ổn, hay phẳng lặng cả.
Trong
phân đoạn Kinh-thánh mà sáng nay quý ông bà anh chị vừa đọc cho chúng ta thấy
một gia đình cũng xảy ra rất nhiều những hiềm khích và mâu thuẫn đó là gia đình
nhà Ên-ca-na.
THÂN BÀI:
Nương vào lời Chúa, tôi sẽ chia sẻ với Hội Thánh 3 ý
chính sau đây: (1) AN-NE YÊN LẶNG ĐỂ TÌM SỰ YÊN ỦI NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI ( 2) ĐỨC
CHÚA TRỜI ĐÁP LỜI VƯỢT QUÁ SỰ CẦU NGUYỆN CỦA AN-NE ( 3) AN-NE NGƯỜI MẸ TRẢ SỰ
HỨA NGUYỆN
Bây giờ, xin mời quý ông bà anh chị em cùng học phần
thứ nhất:
I. AN-NE YÊN LẶNG ĐỂ TÌM SỰ YÊN ỦI NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong chương 1 câu1- 2 Lời Chúa cho chúng ta biết: Gia
đình nhà ông Ên-ca-na sống tại miền quê đồi núi Ép-ra-im. Đây là một nơi cách nơi thờ phượng Chúa là thành Si-lô
khoảng hơn 30 km.
“ Ên-ca-na có
hai vợ, người nầy tên là An-ne, và người kia tên là Phê-ni-na. Phê-ni-na có
con, còn An-ne không có.”
Ên-ca-na là một người tốt và tin kính Chúa ngoại trừ
chi tiết ông có hai vợ. Và chúng ta không biết tại sao ông lại có hai vợ. Nhưng
dựa theo bối cảnh bản văn thì chúng ta được biết rằng: Có lẽ vì do bà An-ne là
vợ đầu không có con, lên ông đã cưới Phê-ni-na để có con nối dõi tông đường.
Và đây cũng chính là vấn nạn và nan đề đã xảy ra biết
bao những hiềm khích, mâu thuẫn, ghen tỵ và đố kỵ trong gia đình nhỏ này.
Lời Chúa trong câu 3-6 tác giả cho chúng ta biết: “Mỗi năm, Ên-ca-na ở thành mình đi lên Si-lô
đặng thờ phượng Đức Giê-hô-va vạn quân, và dâng của tế lễ cho Ngài; tại Si-lô
có hai con trai của Hê-li, là Hóp-ni và Phi-nê-a, thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va.
4 Đến ngày
Ên-ca-na dâng tế lễ, thì chia của lễ ra từng phần ban cho Phê-ni-na, vợ mình,
và cho các con trai và con gái mình. 5 Nhưng người lại ban cho An-ne một phần
bằng hai, vì người thương nàng, dẫu rằng Đức Giê-hô-va khiến cho nàng son sẻ. 6
Kẻ phân bì nàng khôn xiết trêu ghẹo nàng, để giục nàng lằm bằm vì Đức Giê-hô-va
đã khiến nàng son sẻ. 7 Từ năm nầy đến năm kia, mỗi khi nàng đi lên đền Đức
Giê-hô-va, chồng đãi nàng như vậy, còn Phê-ni-na cứ trêu ghẹo nàng; An-ne khóc
và không ăn.”
Thưa
quý vị!
Có
bao giờ, quý vị đi thờ phượng Chúa mà bị người nào đó trêu trọc, và hạ nhục
chưa? Thường một người xa lạ mà trêu chọc, đâm bị thóc, chọc bị gạo cũng là
việc rất khó chịu rồi huống hồ đây là một người sống cùng nhà, ăn cùng mâm thì
lại càng đau khổ biết dường bao.
Nếu
chúng ta hỏi bà An-ne thì bà sẽ nói cho chúng ta biết bà thường bị như vậy dù ở
nhà hoặc khi lúc khi lên đền thờ.
Ở
nhà thì Phê-ni-na cứ tìm đủ mọi cách để trêu chọc, trọc tức và hạ nhục bà
An-ne. Nhưng Phê-ni-na cũng làm những điều đó ngay cả trong những ngày đi thờ
phượng Chúa nữa kia.
Mặc
dầu đi trên đường để đến Si-lô để thờ phượng Ngài mà Phê-ni-na vẫn cứ giữ cái
bản chất ganh ghét, đố kỵ, chêu trọc và hạ nhục An-ne. Mặc dầu trong những ngày
ở tại Si-lô dâng của lễ và thờ phượng Chúa như vậy mà Phê-ni-na bản chất vẫn
không có gì là thay đổi cả.
Phê-ni-na
là hình ảnh của một Cơ Đốc nhân không được tái sanh, nối sống, lời nói, và tấm
lòng đầy dẫy những ác ý, tranh cạnh, ghen ghét, thóa mạ, làm nhục người khác.
Mặc
dầu có đi lên đền thờ đó, có dâng của lễ đó, nhưng đời sống vẫn chẳng có gì
thay đổi, mặc dầu có dâng của lễ nhưng đời sống bà chẳng phải là một của lễ tốt
cho Chúa.
Ngày
nay, nhìn vào Hội Thánh hay chính mình chúng ta, chúng ta cũng nhìn thấy chính
mình có những lúc chính chúng ta là những Phê-ni-na. Mặc dầu tôi mang danh là con cái
Chúa đấy nhưng chẳng có Chúa ở đâu trong đời sống mình hết.
Trong
tất cả những lời thóa mạ, trêu chọc và hạ nhục của Phê-ni-na, An-ne vẫn cho
thấy phẩm chất của bà cao đẹp. Gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bùn.
Chúng
ta thấy trong suốt bối cảnh của đoạn Kinh-thánh thì bà An-ne không thấy bà nói một
lời nói trả đủa nào đối với Phê-ni-na cả.
An-ne
đã không ăn miếng trả miếng, không lấy rủa sả trả rủa sả. Trong mọi việc bà giữ
tấm lòng yên lặng trước mặt Đức Chúa Trời.
Tên “An-ne” có nghĩa là “người nữ hiền lành”, và bà đã
sống đúng với cái tên ấy trong cách đối diện với tình
trạng son sẻ của mình cũng như đối với thái độ và lời lẽ cay độc của Phê-ni-na.
Việc không có con là một nỗi khổ lớn nhưng
bà An-ne còn khổ tâm hơn vì luôn luôn bị Phê-ni-na đem chuyện không con ra trêu
chọc, chế giễu.
Trong câu 5 tác giả cho chúng ta biết: “ bà An-ne được chồng rất yêu thương, rồi
xuống câu 8 chúng ta thấy sự quan tâm rất sâu sắc của ông Ên-ca-na đối với bà
An-ne: “Ên-ca-na, chồng nàng, nói rằng: Hỡi An-ne, sao nàng khóc? Cớ sao không
ăn và lòng buồn bực dường ấy? Ta há chẳng đáng cho nàng hơn mười đứa con trai
ư?”
Mặc dầu, bà An-ne được chồng yêu thương
nhiều hơn, quan tâm và chia sẻ, cảm thông với bà xong chúng ta không hề thấy bà
An-ne đi kể chuyện xấu và lời nói độc địa của Phê-ni-na cho chồng mình nghe.
Bà giữ im lặng, bà không hề kể với chồng của
mình. Bà giữ yên lặng không kể chuyện xấu của Phê-ni-na cho chồng điều đó cũng
dạy cho tất cả mỗi chúng ta một bài học rất quý giá trên bước đường theo Chúa.
“
Yên lặng trong lúc bị trêu trọc là rất quý giá, yên lặng trong lúc bị hạ nhục
là vàng”.
Đôi khi nói ra cũng không phải là điều
tốt, mặc dầu điều chúng ta nói có thể không sai. Nhưng giữ thái độ yên lặng
trước những lời thóa mạ, nhục mạ của người khác là khôn ngoan.
Minh họa: Người ta đã vẻ một bức hình hằng
ngày con cái của Phê-ni-na ngồi ăn vui vẻ quây quần bên mâm cơm bên cạnh có kẻ
hầu người hạ. Trong bức tranh ánh mắt khinh bỉ và điệu cười châm biếm của
Phê-ni-na. Điều đó đã khiến cho bà An-ne ngậm ngùi quay mặt và lấy tay gặt nước
mắt đi.
Không hề trả đũa, không hề một lời ra khỏi
miệng.

Minh họa: Khi Chúa Giê-xu bị người ta chế
diễu, đánh đập và nhục mã, Ngài đã giữ thái độ như chiên câm đứng trước mặt kẻ
hớt lông.
Tiên tri Ê-sai đã nói về thái độ của Ngài
rằng: Ngài chẳng hề mở miệng đến nỗi một lời lành cũng không.
Bà An-ne không kể chuyện xấu của Phê-ni-na
cho chồng mình điều đó cũng dạy cho chúng ta biết. Bà thay vì tìm sự yên ủi và
bảo vệ từ người chồng của mình thì bà đã trải lòng trước mặt Chúa qua sự cầu
nguyện để tìm sự yên ủi của Đức Chúa Trời.
Thay vì bà mong chồng đứng ra xét lẽ công
bình cho mình thì bà đã trao phó mọi trăn trở, u sầu, buồn tủi của mình cho Đức
Chúa Trời để Đức Chúa Trời xét lẽ công bình cho bà.
Minh họa: Nếu chúng ta bị ai đó hạ nhục,
xúc phạm thì thường tìm đến một người nào đó yêu thương chúng ta để tìm sự ủng
hộ và bênh vực của người đó cho mình.
Nhưng khi mình chạy đến với con người tức
là mình hoàn toàn chưa chạy đến với Đức Chúa Trời.
Con người chúng ta ở trong xác thịt mà xác
thịt luôn tìm những gì có lợi cho bản thân chứ không chịu yên lặng, hy sinh và
vì người khác.
Lời Chúa trong tiên tri Ê-sai qua ông Chúa
đã phán cho dân sự của Ngài rằng: “Các
ngươi sẽ được rỗi, là tại trở lại và yên nghỉ; các ngươi sẽ được sức mạnh,
là tại yên lặng và trông cậy. Nhưng các ngươi đã không muốn thế! ( Ê
sai 30:15)
Nghe đến tên Ma-ri, chúng ta suy nghĩ đến
một thiếu nữ hiền lành, đạo đức. Ai cũng say mê nhắc nhở Ma-ri với lòng ngưỡng
mộ, tôn kính. Ðức hạnh tuyệt vời đó cũng có trong Giô-sép, nhưng Joseph dường
như bị lãng quên trong câu chuyện Giáng Sinh. Mấy ai làm thơ, viết nhạc ca tụng
con người khiêm tốn, trầm lặng nầy?
Joseph đóng vai phụ, nhỏ bé, tầm thường.
Chúng ta thấy Ma-ri ngồi trên lưng lừa, còn Joseph? Kiên nhẫn cầm dây cương lội
bộ - suốt đoạn đường từ Na-xa-rét đến Bết-lê-hem! Joseph lội bộ đường sa mạc xa
xôi đưa Hài Nhi Jesus và Ma-ri lánh nạn qua Ai-cập (Ma-thi-ơ 2:14). Joseph yên
lặng đứng lùi lại đàng sau trong chuồng lừa khi các mục tử đến tôn thờ Hài Nhi
Thánh.
Anh Chị có biết rằng tên ông không được
nhắc đến khi các vương tử miền đông chiêm ngưỡng và dâng lễ vật (2:11)? Hầu hết
các nhân vật trong câu chuyện Giáng Sinh đều nói. Vua, thầy tế lễ, thầy dạy
luật, mục tử, các nhà bác học nói. Mari nói. Joseph không nói.
Ông làm gì? Ma-thi-ơ 1:24: “Giô-sép làm y
như lời thiên sứ dặn.” Yên lặng, vâng lời, phục vụ. Joseph yên lặng. Yên lặng
là vàng. Yên lặng gây tiếng vang. Quý hơn trăm triệu lời nói văn hoa. Joseph
nói lên lời cao quý qua tâm tình, thái độ và nếp sống của mình.
Joseph không ăn miếng trả miếng, không
giận dữ, thù hận – khi người khác gièm chê, cười cợt, châm biếm, chỉ trích:
“Chưa cưới mà có bầu. Nuôi con ông hàng xóm. Dại, khùng, đồ ngu!” Thái độ yên
lặng của người quân tử, nhẫn nhục, cao thượng. Ma-thi-ơ 1:19 gọi ông là? Người
có nghĩa!
Thái độ của Joseph gây tiếng vang hùng hồn
hơn một vạn lời thơ trống rỗng. Tâm tình kính sợ, vâng phục Chúa của ông thành
khẩn, mãnh liệt hơn những bài ca trong cuộc đời.
II.
ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÁP LỜI VƯỢT QUÁ SỰ CẦU NGUYỆN CỦA AN-NE
An-ne
để lại cho chúng ta một tấm gương tốt về sự cầu nguyện. Lời cầu nguyện của bà
buồn rầu và khốn khổ, nhưng dù cho cảm xúc của bà thế nào, bà đã phơi bày tấm
lòng của mình trước mặt Chúa.
Lời
Chúa trong câu 10 có chép “An-ne lấy làm
sầu khổ trong lòng, vừa cầu khẩn Đức Giê-hô-va, vừa tuôn tràn giọt lệ.”
Đây
là câu Kinh-thánh mô tả tâm trạng và nỗi lòng cùng sự đau khổ của bà An-ne đối
với Đức Chúa Trời.
An-ne
một con người đau khổ đã tìm đến Đức Chúa Trời.
An-ne
một con người đau khổ dốc đổ với Đức Chúa Trời.
An-ne
một con người đau khổ đã được chữa lành bằng sự cầu nguyện.
Trong
bối cảnh của phân đoạn Kinh-thánh này, thì có ba hạng người sống bên cạnh An-ne
nhưng không ai hiểu được nỗi lòng của bà.
1. Ên-ca-na
2. Phê-ni-na
3. Thầy-tế-lễ Hê-li.
Không
ai hiểu được nỗi sầu khổ của bà cả, cũng không ai giải quyết được nỗi sầu khổ của
bà ngoài chính mình Đức Chúa Trời.
Năm
điều cần có trong lời cầu nguyện khi chúng ta thấy trong lời cầu nguyện của
An-ne và đây cũng chính là những điều chúng ta lên có trong lời cầu nguyện mỗi
khi đến với Đức Chúa Trời và mong Ngài đáp lời.
(1)
Tấm lòng
(2)
Cầu khẩn
(3)
Nước mắt
(4)
Khiêm nhường (
con đòi)
(5)
Nếu
hôm nay, chúng ta lấy lời cầu nguyện mẫu của An-ne để soi vào lời cầu nguyện
của chúng ta thì sẽ thấy chúng ta thiếu điều gì trong ba điều ấy.
-
Trước hết, là bà
đã trải lòng ra trước mặt Chúa. Tức là bà không hề dấu diếm điều gì với Chúa
hết, mặc dầu điều đó có thể là không phải là điều tốt đi chăng nữa.
Trong
câu 15 An-ne nói với thầy-tế-lễ Hê-li rằng: “
Tôi giãi bày lòng tôi ra trước mặt Đức-Giê-hô-va.”
Cầu
nguyện là gì là giãi bày lòng mình ra trước mặt Chúa.
Trong
bản dịch khác dịch là: “tôi chỉ thổ lộ
tâm can trước nhan ĐỨC CHÚA. [GKPV]
Tôi chỉ dốc đổ lòng tôi ra trước mặt
CHÚA. [BDM]
Một
loạt các động từ: “ dốc đổ, thổ lộ, giãi bày” là những diễn từ mô tả cái nỗi
lòng sâu thẳm bên trong của bà với Đức Chúa Trời.
Minh
họa: Chúng ta thường đến với Chúa bằng những lời cầu nguyện xáo rỗng bề ngoài
mà thiếu sự dốc đổ, thiếu sự giãi bày, bà thổ lộ trước mặt Chúa phải không?
Tác
giả của Thi-thiên 62: 8 Lời Chúa kêu gọi “Hỡi
bá tánh, khá nhờ cậy nơi Ngài luôn luôn, Hãy dốc đổ sự lòng mình ra tại trước
mặt Ngài.”
An-ne
vừa khóc vừa dốc đổ lòng mình trước mặt Chúa. Theo lời Thánh Kinh ghi, nàng
không cầu nguyện thành lời nhưng chỉ thầm nguyện với tấm lòng khẩn thiết, với
nỗi niềm không thể nói nên lời. Ðây là lời cầu xin tha thiết, từ tấm lòng tan
vỡ chân thành. Khi cầu nguyện, An-ne thật sự tâm giao với Chúa, hướng trọn linh
hồn và tâm thần về Chúa, nàng không để ý đến người chung quanh, cũng không cần
biết người chung quanh nghĩ gì về mình.
-
Thứ hai, bà đã
đối diện với đau khổ bằng sự cầu nguyện.
Dù
đau buồn vì không con nhưng An-ne không tuyệt vọng, nàng không đầu hàng hoàn
cảnh. Trái lại, An-ne tìm thấy hy vọng nơi Ðức Chúa Trời qua lời cầu nguyện.
Trong ngày lên đền thờ, An-ne đã dành thì giờ cầu nguyện với Chúa. Nàng tin
rằng Chúa là Ðấng Tạo Hóa, Ngài có thể
phá bỏ định luật thiên nhiên và ban cho nàng đặc ân làm mẹ. Lời cầu nguyện của
An-ne rất là rõ ràng và chính đáng. Bà không cầu xin Chúa trừng phạt Phê-ni-na
và những người làm khổ mình, cũng không xin Chúa cất đi niềm vui và hạnh phúc
của họ. An-ne chỉ xin một điều, xin Chúa đoái xem nỗi sầu khổ của nàng và ban
cho nàng một đứa con trai.
-
Thứ ba, bà đã cầu
nguyện trong nước mắt.
Nước
mắt đối với người đời chỉ như giọt nước rơi vô ích. Nhưng đối với Đức Chúa Trời
thì nó không vô ích bao giờ.
Trong
Kinh-thánh nói đến rất nhiều nước mắt. Nhưng một trong những câu Kinh-thánh nỗi
tiếng đó là Thi-thiên 6:8 “Hỡi kẻ làm ác
kia, khá lìa xa ta hết thảy; Vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng khóc lóc ta.”
“Chúa đếm những bước tha hương của tôi!
Xin Chúa để nước mắt tôi trong ve của Chúa, Nước mắt tôi chẳng được ghi vào sổ
Chúa sao” (Thi Thiên 56:8)?
Nước
mắt của bà An-ne là những giọt nước mắt chân thành đến từ một con người đau khổ
và đến từ một tấm lòng trĩu nặng.
Chúng
ta có một gương mẫu vĩ đại mà tác giả thư Hê-bơ-rơ chỉ cho chúng ta: “Khi Đấng
Christ còn trong xác thịt, thì đã kêu lớn tiếng khóc lóc mà dâng những
lời cầu nguyện nài xin cho Đấng có quyền cứu mình khỏi chết, và vì lòng nhân
đức Ngài, nên được nhậm lời.” ( Hê-bơ-rơ 5:7)
Nếu
Thiên Chúa có thể khóc, thì tôi cũng có thể khóc.
Chúng
ta không đau đớn một mình. Chính Chúa Giêsu cũng biết nỗi đau khi khóc than vì
mất người thân. Một trong những trang cảm động nhất Tin mừng, Chúa Giêsu thấy
Maria khóc thương em trai Lazarô vừa chết của mình. Và Chúa Giêsu cũng không
cầm được nước mắt. Ngài xúc động và bắt đầu khóc.
Những
giọt nước mắt của Chúa Giêsu là thuốc giải độc cho sự lãnh đạm của tôi trước
đau khổ của anh chị em mình. Những giọt nước mắt của Ngài dạy tôi biết xem nỗi
đau của người khác là của mình, biết chia sẻ những nản lòng và đau đớn của
những người đang đau khổ.
Những
giọt nước mắt của Chúa Giêsu cho tôi nhận ra sự đau buồn và tuyệt vọng của
những người phải chứng kiến người thân yêu của mình bị bắt đi, những người
không biết tìm đâu sự an ủi. Những giọt nước mắt của Chúa Giêsu cần lời đáp của
những người tin nơi Ngài. Như Ngài hằng an ủi, thì chúng ta cũng được kêu gọi
hãy an ủi.
Tiên
tri Giê-rê-mi được mệnh danh là tiên tri của nước mắt. Khi ông đi rao giảng
Gie 9:1 1 Ôi! Ước gì đầu tôi là suối nước, mắt tôi là nguồn lụy! Hầu cho tôi vì những kẻ bị giết của con
gái dân ta mà khóc suốt ngày đêm.
Ca 1:16 16 Vậy nên ta khóc lóc; mắt ta tuôn nước mắt;
Vì kẻ yên ủi làm tỉnh hồn ta thì đã xa ta.
Con cái ta bị đơn chiếc, vì kẻ thù đã thắng trận.
Vì kẻ yên ủi làm tỉnh hồn ta thì đã xa ta.
Con cái ta bị đơn chiếc, vì kẻ thù đã thắng trận.
Ca 2:11 11 Mắt ta hao mòn vì chảy nước mắt,
lòng ta bối rối;
Gan ta đổ trên đất, vì sự hủy diệt con gái dân ta.
Vì con trẻ và các con đương bú, ngất đi nơi các đường phố trong thành.
Gan ta đổ trên đất, vì sự hủy diệt con gái dân ta.
Vì con trẻ và các con đương bú, ngất đi nơi các đường phố trong thành.
Ca 2:18 18 Lòng dân ngươi kêu van đến Chúa.
Hỡi tường thành con gái Si-ôn, hãy cho nước mắt ngươi ngày đêm chảy như sông!
Đừng cho nghỉ ngơi; con ngươi mắt ngươi chẳng thôi.
Hỡi tường thành con gái Si-ôn, hãy cho nước mắt ngươi ngày đêm chảy như sông!
Đừng cho nghỉ ngơi; con ngươi mắt ngươi chẳng thôi.
- Thứ
tư, bà đã cầu nguyện trong sự khiêm nhường.
Bà
đến với Chúa xưng hô với Chúa: Bà sử dụng chữ “ con đòi”
Khiêm
nhường: Kế đến, bà An-ne bày tỏ thái độ khiêm nhường trong khi cầu nguyện “ bà
đã tự xem mình là con đòi Ngài” động từ
“ con đòi hay nữ tỳ” Từ Hán Việt có nghĩa là Đầy tớ gái, hay là nghĩa là kẻ hèn
mọn.
Ý muốn nói lên bà chỉ là kẻ hèn mọn cần được Chúa thương xót, bà
không cho là bà xứng đáng được nhận, nhưng tùy vào lòng nhân từ và sự thương xót của Chúa.
Đây là một thái độ khiên nhường của một người khi cầu nguyện:
Minh họa: Trong
Phúc-âm Luca 18 Chúa Giê-xu có kể một ví dụ về hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một người Pha-ri-si và
một người thâu thuế.
“Người
Pha-ri-si đứng cầu nguyện thầm như vầy: Lạy Đức Chúa Trời, tôi tạ ơn Ngài,
vì tôi không phải như người khác, tham lam, bất nghĩa, gian dâm, cũng không phải như người thâu
thuế nầy. 12 Tôi
kiêng ăn một tuần lễ hai lần, và nộp một phần mười về mọi món lợi của tôi. 13 Người thâu
thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà rằng: Lạy Đức Chúa
Trời, xin thương xót lấy tôi, vì tôi là kẻ có tội! 14 Ta
nói cùng các ngươi, người nầy trở về nhà
mình, được xưng công bình hơn người kia;
vì ai tự nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên.”
Người Pha-ri-si chạy đến với Chúa cầu nguyện để kể ra những việc làm đạo đức, công danh, sự nghiệp đóng góp cho
nhà Chúa, tự đắc ý và hãnh diện vào những việc làm công bình riêng của mình.
Còn người thâu thuế thì đứng xa xa, không
dám ngước mắt lên trời, đám ngực cầu nguyện “Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót lấy tôi, vì tôi là kẻ có tội!”
Có những người cầu nguyện dài nhưng lại cầu nguyện theo kiểu của người Pha-ri-si nhưng có những người cầu nguyện ngắn nhưng lại là lời cầu nguyện được Chúa đẹp lòng nhận lời.
Người thâu thuế cầu nguyện rằng: Xin thương xót lấy tôi, vì tôi
là kẻ có tội, tôi không xứng đáng, tôi không phải là người công bình,
tôi không là gì hết.
Có nhiều khi chúng ta
đến với Chúa mà cứ như thể chúng ta ra lệnh cho Chúa: Phải thành cái này, phải được cái kia, mà thiếu đi tấm lòng của một con đòi, thiếu đi sự khiêm nhường của một nữ tỳ. Tôi và quý
vị không có gì xứng đáng trước mặt Chúa đâu, dầu chúng ta làm nhiều việc cho Chúa đi chăng nữa thì chúng ta
cũng chẳng khác chi con đòi hoặc nữ tỳ mà thôi. Việc Chúa đáp lời, nhận lời cầu nguyện của chúng ta cũng
chỉ vì Chúa thương xót, đoái đến mà thôi.
-
Thứ năm, bà cầu nguyện
Quý
vị có đang gặp phải nỗi sầu khổ nào không? Quý vị sẽ đối diện với những điều đó
như thế nào?
Có
phải quý vị lằm bằm, chán nản, thật vọng và bỏ cuộc không? Đứng trước một nan
đề rất lớn là bị son sẻ không con, người người châm biếm, mỉa mai. Nhưng An-ne
đã không chịu khuất phục bà đã thể hiện vài trò của một người nữ đầy đức tin đó
là chạy đến với Đức Chúa Trời.
III.
AN-NE NGƯỜI MẸ TRẢ SỰ HỨA NGUYỆN

Từ
núi Ép-ra-im đến Si-lô là một đoạn đường dài hơn 30 km, chuyến đi bộ kéo dài
một hoặc hai ngày. Trong chuyến đi ấy mặc dù An-ne biết sẽ bị tình địch là
Phê-ni-na đối xử tệ bạc xong bà vẫn cứ đi.
Trong
cuộc đời theo Chúa của chúng ta cũng có rất nhiều Phê-ni-na ngăn trở chúng ta
để không có thể đi lên thờ phượng Chúa được. Nhiều lần Ma-quỷ đã đặt Phê-ni-na
trong bước đường chúng ta đi thờ phượng Chúa.
Đó
có thể là chồng vợ, con cái, công ăn việc làm, hoặc một biến cố hoặc lời nói
nào đó khiến chúng ta chán nản, ngã lòng bỏ cuộc không tiếp tục đi lên thờ
phượng Chúa nữa.
Minh
họa: Pha-ra-ôn rất thâm độc và đầy sự khôn khéo đã đặt những Phê-ni-na để ngăn
trở tuyển dân của Chúa không đi lên thờ phượng và dâng của lễ cho Chúa được.
Nó
bắt đóng gạch, nhưng phải tự đốt bằng rơm, nó cho đàn ông đi mà không cho đàn
bà và con nít đi. Nó cho đàn bà con nít đi xong không cho bò lừa đi.
Pha-ra-ôn
đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên vào đồng vắng.
“Vả,
khi Pha-ra-ôn đến gần, dân Y-sơ-ra-ên ngước mắt lên, thấy dân Ê-díp-tô đuổi
theo, bèn lấy làm hãi hùng, kêu van Đức Giê-hô-va. 11 Chúng lại nói cùng Môi-se
rằng: Xứ Ê-díp-tô há chẳng có nơi mộ phần, nên nỗi người mới dẫn chúng tôi vào
đồng vắng đặng chết sao? Người đưa chúng tôi ra xứ Ê-díp-tô để làm chi? 12
Chúng tôi há chẳng có nói cùng người tại xứ Ê-díp-tô rằng: Để mặc chúng tôi
phục dịch dân Ê-díp-tô, vì thà rằng phục dịch họ còn hơn phải chết nơi đồng
vắng? 13 Môi-se đáp cùng dân sự rằng: Chớ sợ chi, hãy ở đó, rồi ngày nay xem sự
giải cứu Đức Giê-hô-va sẽ làm cho các ngươi; vì người Ê-díp-tô mà các ngươi ngó
thấy ngày nay, thì chẳng bao giờ ngó thấy nữa. 14 Đức Giê-hô-va sẽ chiến cự
cho, còn các ngươi cứ yên lặng.”
Lời cầu nguyện của An-ne
Dù đau buồn vì không con nhưng An-ne không
tuyệt vọng, nàng không đầu hàng hoàn cảnh. Trái lại, An-ne tìm thấy hy vọng nơi
Ðức Chúa Trời qua lời cầu nguyện. Trong ngày lên đền thờ, An-ne đã dành thì giờ
cầu nguyện với Chúa. Nàng tin rằng Chúa là Ðấng Tạo Hóa, Ngài có thể phá
bỏ định luật thiên nhiên và ban cho nàng đặc ân làm mẹ. Lời cầu nguyện của
An-ne rất là rõ ràng và chính đáng. Bà không cầu xin Chúa trừng phạt Phê-ni-na
và những người làm khổ mình, cũng không xin Chúa cất đi niềm vui và hạnh phúc
của họ. An-ne chỉ xin một điều, xin Chúa đoái xem nỗi sầu khổ của nàng và ban
cho nàng một đứa con trai.
An-ne vừa khóc vừa dốc đổ lòng mình trước
mặt Chúa. Theo lời Thánh Kinh ghi, nàng không cầu nguyện thành lời nhưng chỉ
thầm nguyện với tấm lòng khẩn thiết, với nỗi niềm không thể nói nên lời. Ðây là
lời cầu xin tha thiết, từ tấm lòng tan vỡ chân thành. Khi cầu nguyện, An-ne
thật sự tâm giao với Chúa, hướng trọn linh hồn và tâm thần về Chúa, nàng không
để ý đến người chung quanh, cũng không cần biết người chung quanh nghĩ gì về
mình. Chính vì thế mà An-ne đã bị thầy tế lễ Hê-li hiểu lầm, tưởng nàng say
rượu nên nói lảm nhảm một mình.
Chúng ta cùng xem phần Kinh Thánh dưới đây
để thấy rõ nỗi lòng của An-ne:
“Sau khi người ta đã ăn uống tại Si-lô
rồi, An-ne bèn đứng dậy, lúc ấy Hê-li, thầy tế lễ, đương ngồi trên một cái ghế
gần bên cửa của đền Ðức Giê-hô-va. An-ne lấy làm sầu khổ trong lòng, vừa cầu
khẩn Ðức Giê-hô-va vừa tuôn tràn giọt lệ. Nàng hứa nguyện rằng: Ôi, Ðức
Giê-hô-va của vạn quân, nếu Ngài đoái xem nỗi sầu khổ của con đòi Ngài, nhớ lại
nó chẳng quên, và ban cho con đòi Ngài một đứa trai, thì tôi sẽ phú dâng nó
trọn đời cho Ðức Giê-hô-va, và dao cạo sẽ chẳng đưa ngang qua đầu nó.
“Vì nàng cầu nguyện lâu dài trước mặt Ðức
Giê-hô-va, Hê-li chăm xem miệng nàng. Vả An-ne nói trong lòng, chỉ nhóp nhép
miệng mà thôi, không có ai nghe tiếng nàng, nên Hê-li tưởng nàng say, bèn hỏi
rằng: chừng nào nàng mới hết say? Hãy đi giã rượu đi.” An-ne thưa rằng: Chẳng
phải vậy chúa, tôi vốn một đàn bà có lòng buồn bực, chẳng uống rượu hay là vật
gì uống say; nhưng tôi giải bày lòng tôi ra trước mặt Ðức Giê-hô-va. Chớ tưởng
con đòi của ông là một người đàn bà gian ác; vì nỗi đau đớn và ưu phiền quá độ
của tôi bắt tôi phải nói đến bây giờ” (I Sa-mu-ên 1:9-16).
Khi bị thầy tế lễ hiểu lầm, cho mình là
người say, An-ne đã thành thật thưa rằng nàng đang giải bày niềm đau của mình
với Chúa; vì quá đau buồn nàng không thể cầu nguyện thành lời chứ không phải là
nàng say rượu. Nghe vậy thầy tế lễ Hê-li có vẻ ân hận nên dù không biết An-ne
đã cầu xin Chúa điều gì, ông nói: “Hãy đi bình an, nguyện Ðức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên nhậm lời nàng đã cầu xin cùng Ngài.”
Thưa quý vị, bà An-ne là một phụ nữ có
nhiều điều cao đẹp cho chúng ta học hỏi nhưng vì giới hạn của Trang Phụ Nữ,
chúng tôi xin tạm ngưng bài nói về bà An-ne tại đây. Mời quý vị đón đọc trong
Thông Công số tới.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Popular Posts
-
ĐỀ TÀI: HẦU VIỆC CHÚA KINH THÁNH: GIĂNG 12: 26 NHẬP ĐỀ: Kính thưa Hội-thánh! Làm sao chúng ta có thể hầu việc Chúa? Có phải là ...
-
Đề tài : KHAI TRÌNH VỚI CHÚA Kinh-thánh : Rô-ma 14:12 & I Phi-e-rơ 4:5 Câu gốc : II Cô-rinh-tô 5:10 Nhập đề: Thưa Hội-thánh ...
-
THÁNH KINH 100 TUẦN TUẦN 62: SÁCH GIÓP (Chương 22-42) Lần trước ta đã đặt mình vào hoàn cảnh đầy thử thách của ông Gióp và từ hoàn cả...
-
ĐỀ TÀI: CHUẨN BỊ NGÀY CHÚA TRỞ LẠI KINH THÁNH: I Tê-sa-nô-ni-ca NHẬP ĐỀ: Trân trọng kính chào quý tôi con của Chúa Giê-xu yêu dấu...
-
ĐỀ TÀI: CHUẨN BỊ CHO NGÀY CHÚA TRỞ LẠI KINH THÁNH: I TÊ-SA-NÔ-NI-CA 1 & 2 NHẬP ĐỀ: Ha-lê-lua-gia! Giê-xu đẹp ánh nắ...
-
ĐỀ TÀI: PHẦN THƯỞNG CHO NGƯỜI CHỊU KHỔ VÌ NƯỚC TRỜI KINH THÁNH: II TÊ-SA-LÔ-NI-CA 1 NHẬP ĐỀ: Hôm nay, chúng ta chuyển sang lá thư t...
-
Đề tài : AN-NE NGƯỜI PHỤ NỮ YÊN LẶNG VÀ SỰ CẦU NGUYỆN Kinh-thánh : I Sa-mu-ên 1:1-28 Lời chào mừng: NHẬP ĐỀ: Thưa Hội-thánh! ...
-
THÁNH KINH 100 TUẦN ( Sáng-thế-ký 20-25) Giải Đáp Thắc Mắc Khi giải thích thắc mắc phải dựa trên nền tảng Thánh Kinh, Vì nếu giải t...
Recent Posts
Join the Team
-
Blogger news
-
Latest Photos
-
Popular Posts
-
ĐỀ TÀI: HẦU VIỆC CHÚA KINH THÁNH: GIĂNG 12: 26 NHẬP ĐỀ: Kính thưa Hội-thánh! Làm sao chúng ta có thể hầu việc Chúa? Có phải là ...
-
Đề tài : KHAI TRÌNH VỚI CHÚA Kinh-thánh : Rô-ma 14:12 & I Phi-e-rơ 4:5 Câu gốc : II Cô-rinh-tô 5:10 Nhập đề: Thưa Hội-thánh ...
-
THÁNH KINH 100 TUẦN TUẦN 62: SÁCH GIÓP (Chương 22-42) Lần trước ta đã đặt mình vào hoàn cảnh đầy thử thách của ông Gióp và từ hoàn cả...
-
ĐỀ TÀI: CHUẨN BỊ NGÀY CHÚA TRỞ LẠI KINH THÁNH: I Tê-sa-nô-ni-ca NHẬP ĐỀ: Trân trọng kính chào quý tôi con của Chúa Giê-xu yêu dấu...
-
ĐỀ TÀI: CHUẨN BỊ CHO NGÀY CHÚA TRỞ LẠI KINH THÁNH: I TÊ-SA-NÔ-NI-CA 1 & 2 NHẬP ĐỀ: Ha-lê-lua-gia! Giê-xu đẹp ánh nắ...
-
ĐỀ TÀI: PHẦN THƯỞNG CHO NGƯỜI CHỊU KHỔ VÌ NƯỚC TRỜI KINH THÁNH: II TÊ-SA-LÔ-NI-CA 1 NHẬP ĐỀ: Hôm nay, chúng ta chuyển sang lá thư t...
-
Đề tài : AN-NE NGƯỜI PHỤ NỮ YÊN LẶNG VÀ SỰ CẦU NGUYỆN Kinh-thánh : I Sa-mu-ên 1:1-28 Lời chào mừng: NHẬP ĐỀ: Thưa Hội-thánh! ...
-
THÁNH KINH 100 TUẦN ( Sáng-thế-ký 20-25) Giải Đáp Thắc Mắc Khi giải thích thắc mắc phải dựa trên nền tảng Thánh Kinh, Vì nếu giải t...
-
© 2013 iPRESS. All rights resevered. Designed by Templateism