Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

0

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

Đề tài: KHAI TRÌNH VỚI CHÚA

0
Đề tài:  KHAI TRÌNH VỚI CHÚA
Kinh-thánh: Rô-ma 14:12 & I Phi-e-rơ 4:5
Câu gốc: II Cô-rinh-tô 5:10
Nhập đề:
Thưa Hội-thánh nếu hôm nay, Chúa hỏi quý ông bà anh chị em và tôi một câu hỏi rằng: “ Tại sao con được vào thiên đàng” thì chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Nếu Chúa hỏi rằng: “ Từ ngày con tin Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và làm chủ cuộc đời mình đến nay thì con đã sống như thế nào?” Chúng ta sẽ trả lời với Chúa ra sao?
Cứ đến cuối năm, mỗi công ty, hoặc doanh nghiệp đều lo đúc kết, hoặc tính sổ xem một năm qua họ đã thu được lợi nhuận nào?

Quý ông bà anh chị em và tôi đến ngày trở về gặp Chúa chúng ta cũng phải khai trình mọi việc trước mặt Chúa? Nếu chúng ta ý thức được như vậy thì chúng ta sẽ sống có trách nhiệm với bản thân mình hơn, cẩn thận hơn, tỉnh thức hơn trong cuộc đời này.

Sáng hôm nay, tôi xin mời quý Hội-thánh cùng học với tôi đề tài: KHAI TRÌNH VỚI CHÚA.
Phần thứ nhất chúng ta tìm hiểu đó là:
I.                   ĐẤNG MÀ CHÚNG TA PHẢI KHAI TRÌNH LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI
Lời Chúa trong thơ Rô-ma 14: 10-12 sứ đồ Phao-lô khẳng định: “ Vì chúng ta hết thảy sẽ ứng hầu trước tòa án Đức Chúa Trời. 11 Bởi có chép rằng: Chúa phán: Thật như ta hằng sống, mọi đầu gối sẽ quì trước mặt ta, Và mọi lưỡi sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời. 12 Như vậy, mỗi người trong chúng ta sẽ khai trình việc mình với Đức Chúa Trời.
Đây là một câu Kinh-thánh mà được ghi ở bảng lớn trước cổng một nhà thờ lớn tại Mỹ.
Câu Kinh-thánh này cho chúng ta biết: động từ “ hết thảy” và “ mỗi người” là nói đến từng cá nhân, không ngoại trừ một ai. Cả người tin Chúa lẫn người chưa tin, tất cả mọi người trong nhân loại này phải khai trình trước mặt Chúa.
Dù chúng ta là ai, già trẻ lớn bé, tín đồ hay Mục-sư, dù giàu hay nghèo, văn minh hay lạc hậu bán khai hết thảy đều phải ứng hầu trước Chúa và trả lời về mọi việc của đời mình với Đức Chúa Trời.

Tôi sẽ khai trình với Chúa việc tôi làm, mỗi ông bà anh chị em ngồi đây sáng hôm nay, từng người từng người một lần lượt sẽ khai trình mọi việc trước mặt Ngài.
Minh họa: Câu chuyện trong Phúc-âm Ma-thi-ơ 26:14-30
Người được ban cho một lâng, người được hai ta lâng, người được ban cho năm ta lâng.

Ngài đã giao cho chúng ta những của cải, những ta lâng, ân tứ và thời gian cùng mọi thứ. Vậy chúng ta đã dùng nó và sử dụng nó như thế nào? Đó là những câu hỏi mà chúng ta phải trả lời trước Chúa khi về gặp Ngài. Điều này Kinh-thánh gọi đó là khai trình với Đấng Tạo Hóa.

Sứ-đồ Phao-lô nói: “ hết thày chúng ta” “ sẽ ứng hầu trước tòa án Đức Chúa Trời” “ mỗi người trong chúng ta phải khai trình trước mặt Chúa”

Điều đó có nghĩa là chúng ta không ai được phép đứng vào thay chỗ của Đức Chúa Trời trong việc phán xét anh em mình, chỉ có Đức Chúa Trời mới là quan tòa trong việc phán xét mọi người. Ngài là quan án công bình.

Ro 14:10   10 Nhưng ngươi, sao xét đoán anh em mình? Còn ngươi, sao khinh dể anh em mình? Vì chúng ta hết thảy sẽ ứng hầu trước tòa án Đức Chúa Trời.

Chúng ta không phải khai trình về mọi việc của chúng ta với con người, mà với một mình Đức Chúa Trời thôi, vì con người không thể đứng vào chỗ của vị quan tòa công bình được. Mà tại sao con người không có quyền đoán xét, hay phán xét nhau vì con người phán xét, hay đoán xét theo sự suy nghĩ riêng của bản thân, theo cái gì mình thích, hoặc hợp với mình, nhưng chỉ duy Đức Chúa Trời mới là quan án công bình mà thôi.

Minh họa: Sứ đồ Phao-lô nói trong thơ Rô-ma 2:1 rằng: “Vậy, hỡi người kia, ngươi là ai mặc lòng, hễ đoán xét kẻ khác thì không thể chữa mình được; vì trong khi đoán xét họ, ngươi cũng lên án cho chính mình ngươi nữa, bởi ngươi đoán xét họ, mà cũng làm các việc như họ.”

Hễ khi nào chúng ta tự cảm thấy mình tức giận về tội lỗi của một ai đó là điều có thể được biện minh, thì chúng ta phải cẩn thận. Chúng ta cần lên tiếng chống lại tội lỗi, nhưng phải làm như thế với tinh thần khiêm nhường.

Thường thường thì những tội mà chúng ta thấy rõ ràng nhất nơi kẻ khác, lại chính là những tội đã ăn sâu mọc rễ ngay trong chúng ta. Nếu chúng ta nhìn kỹ chính mình, chúng ta có thể nhận thấy chính mình cũng phạm vào những tội tương tự mà về phương diện xã hội, chúng ở dưới những hình thức chấp nhận được. Thí dụ một người hay ngồi lê đôi mách lại thường phê phán người khác ngồi lê đôi mách lẽo mình.

Lúc bức thư của Phao-lô được đọc tại Hội Thánh Rô-ma, chắc nhiều người đã gật đầu khi nghe ông lên án những kẻ thờ thần tượng, theo thói đồng tính luyến ái, và hung dữ. Nhưng có lẽ điều gây ngạc nhiên nhất cho người nghe, là khi ông quay lại nói với họ: “Anh em cũng không thể chữa mình được, vì anh em làm các việc như họ!”

Phao-lô muốn nhấn mạnh rằng chẳng hề có ai thánh thiện đủ để tự cứu lấy mình. Nếu chúng ta muốn tránh được sự hình phạt để cùng sống đời đời với Chúa Cứu Thế, thì mọi người chúng ta, cho dù vốn đã từng giết người, hỗn láo hay thành thật, siêng năng chăm chỉ hay làm một công dân lương thiện, đều phải hoàn toàn trông cậy vào ân điển của Đức Chúa Trời.
                                              
Phao-lô không bình luận xem có những tội nào là tệ hại hơn tội khác. Bất luận một tội nào cũng đủ để dẫn chúng ta đến chỗ trông cậy vào Chúa Cứu Thế Giê-xu để được cứu rỗi và được sự sống vĩnh hằng.

Phao-lô cho chúng ta biết chỉ có Chúa mới là Đấng duy nhất đứng vào chỗ của vị thẩm phán tối hậu mà thôi.
Chúng ta đọc tiếp Rô-ma 2: 2 Vả, chúng ta biết rằng sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với kẻ làm những việc như thế, là hiệp với lẽ thật. 3 Hỡi người đoán xét kẻ phạm những việc dường ấy mà mình cũng phạm kia, vậy ngươi tưởng rằng chính mình ngươi sẽ tránh khỏi sự phán xét của Đức Chúa Trời sao? 4 Hay là ngươi khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung Ngài, mà không nhận biết lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem ngươi đến sự ăn năn sao?” ( Rô-ma 2:1-6)
Phao-lô nói Đức Chúa Trời là Đấng phán xét là hiệp với lẽ thật, sự phán xét của Ngài là sự phán xét công bình.
Minh họa: Ngày hôm qua thế giới đã cho ra mắt một Camera đường phố, rất nhỏ, ghi lại tất cả đoạn đường và những gì diễn ra trên đường phố, chỉ cần nhìn vào màn hình nhỏ xíu đó thì sẽ biết được điều gì xảy ra.
Chẳng hạn, như không may có hai xe đâm vào nhau, ra tòa ai cũng phân vua mình đúng người kia sai nhưng để biết ai đúng ai sai họ chỉ cần mở cái Camera nhỏ xíu ấy lên, ghi lại tốc độ của xe, làn đường của xe, chiếu đi của xe. Dựa vào đó mà quan tòa sẽ phán quyết.

Mai đây chúng ta mỗi chúng ta ứng hầu trước tòa án tối cao của Chúa để trả lời về mọi việc của mình, thì không có chuyện biện hộ rằng: Ví lý do này, hoặc do nơi, tại bởi cho nên con mới làm như vậy.

Sẽ có một video quay lại tất cả mọi hành động và có một quyển xổ ghi lại tất cả mọi lời nói của chúng ta. Lúc đó chúng ta không thể nào chối cãi được. Vì Ngài là vị thẩm phán công bình, không bao giờ xử nhầm hoặc vu cáo ai cả.
Chúa xét xử công bình vì Ngài thấy được tất cả trong chỗ kín nhiệm của loài người. Vì loài người thấy bề ngoài còn Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng.
Ro 2:16   16 Theo Phúc âm tôi truyền giảng, đến ngày Thượng Đế đã định, Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ xét xử mọi tư tưởng, hành động kín đáo của loài người.
[HĐ]

Ro 2:16   16 Người ta sẽ thấy rõ điều đó trong ngày của Đức Chúa Trời, vì Đấng Cứu-thế Giê-su, sẽ phán xét tất cả những tư tưởng thầm kín của con người, theo như Tin Mừng tôi rao giảng.
[ĐNB]

-         Ma-thi-ơ 10:26.
Mình đi những đâu, mình ngồi chỗ nào, mình làm những gì, dù cho không ai biết nhưng Chúa thì biết hết. Mình có thể lòe được con người chứ không thể nào lòe được Chúa.
Minh họa: Mình nhiều khi dâng hiến nhiều nhiều và trên đường về nhà tự hỏi rằng: Không biết hôm nay Chúa có biết mình dâng 1/10 không nhỉ. Nếu Ngài biết thì chắc Ngài phải cảm ơn mình và ban phước cho mình.

Minh họa: Câu chuyện Giô-sép bị vợ của Phô-ti-pha cám dỗ. Tưởng không có ai biết, nhưng Giô-sép đã nói: Tôi không thể làm điều đại ác trước mặt Chúa, trong khi vợ của Phô-ti-pha không nhìn thấy Chúa đâu hết. Nhưng Giô-sép thì biết Chúa đang có mặt ở đó với ông.
Người tin Chúa thì luôn cảm nhận và biết rõ Chúa hiện diện với mình, còn người không tin thì chẳng biết gì về sự hiện diện của Ngài hết.

Nếu chúng ta biết rõ Chúa là quan án công bình, thánh khiết và nghiêm ngặt trong việc phán xét, và chẳng có gì có thể dấu khỏi Ngài được thì thái độ của chúng ta bây giờ phải nói như Phao-lô trong thơ Phi-líp 2: 12 “ ai lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình.”Chúng ta phải cẩn thận hơn trong cách sống, trong việc làm, vì sự cứu chuộc dựa vào Chúa Giê-xu, còn sự phán xét thì dựa vào cách ăn ở của mình.

Chúng ta phải có bổn phận là phải khai trình về mọi việc của chúng ta với Chúa nhưng dựa trên Kinh-thánh thì có 3 điều chính yếu mà mỗi chúng ta phải khai trình đó là:
1.     Chúng ta phải khai trình tất cả mọi lời nói của mình với Chúa.
Lời Chúa trong Ma-thi-ơ 12: 36-37 “Vả, ta bảo các ngươi, đến ngày phán xét, người ta sẽ khai ra mọi lời hư không mà mình đã nói; 37 vì bởi lời nói mà ngươi sẽ được xưng là công bình, cũng bởi lời nói mà ngươi sẽ bị phạt.”
Trong ngày sau rốt, tất cả mỗi người chúng ta sẽ khai mọi lời nói của chúng ta ở trước mặt Đức Chúa Trời.
Chúng ta đã nói gì? Có thể chúng ta nói sau lưng người khác có thể người ta không biết, nhưng chúng ta phải nhớ Đức Chúa Trời nghe, Đức Chúa Trời thấy, Đức Chúa Trời hiểu. Đức Chúa Trời biết tất cả mọi điều chúng ta đã nói.
Chúng ta phải khai trình về tất cả mọi lời nói của mình trước mặt Chúa, chúng ta phải nhớ mọi lời chúng ta nói ngày hôm nay sẽ có kết quả trong ngày sau rốt.

Chúa đã ghi lại hết không bao giờ chúng ta chối được trước mặt Ngài.

Bởi lời nói mà chúng ta được xưng công bình, cũng bởi lời nói mà chúng ta sẽ bị phạt. Bởi vậy mà cho nên chúng ta phải cẩn thận hơn trong mọi lời nói của chúng ta.

Thưa anh chị em! Nhiều khi chúng ta nói mà không có đem đến sự gây dựng, chúng ta nói để gây chia rẽ, chúng ta nói để đâm vào người khác, làm người khác đau, làm người khác tổn thương, làm người khác mất ăn, mất ngủ.

Cầu xin Chúa cứu môi miệng chúng ta để chúng ta không nói những lời hư không. Những lời nói tác hại đến người khác. Nhưng mà chúng ta học nơi tinh thần của sứ đồ Phao-lô. Xin Chúa cho chúng ta tập tránh đi những lời nói đem lại những đổ vỡ, tránh đi những lời nói đem lại những đau thương cho anh em mình.

Lời của Chúa dạy chúng ta trong thơ Ê-phê-sô 4:29 “ Chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến.”

Vì phải khai trình mọi lời nói của mình trước mặt Chúa cho nên hãy nói ra những lời lành có ích cho kẻ nghe đến.
Con người của mỗi chúng ta thường chê người khác nhiều hơn là khen người ta, chúng ta hãy đổi lại là hãy nói những lời khích lệ, nâng đỡ anh em mình. Trong chúng ta ai cũng thiếu xót, yếu đuối nhưng chúng ta tìm ra những lời nói lành và có ích để nâng đỡ anh em mình, để đem anh em đến gần với Chúa hơn, yêu mến Chúa hơn. Đừng nói những lời để chà đạp anh em mình. Xin Chúa dạy chúng ta nói những lời tích cực đừng nói những lời tiêu cực.

Chúa Giê-xu phán rằng: “37 vì bởi lời nói mà ngươi sẽ được xưng là công bình, cũng bởi lời nói mà ngươi sẽ bị phạt.”
Chúng ta tập làm sao những lời nói từ môi miệng chúng ta phát ra những lời ân hậu, nhân từ.

Lời của Chúa trong thơ Cô-lô-se 4:6 Phao-lô cũng dạy chúng ta rất rõ “Lời nói anh em phải có ân hậu theo luôn, và nêm thêm muối, hầu cho anh em biết nên đối đáp mỗi người là thể nào.”
Trong nguyên nghĩa: Lời nói anh em phải có ân điển, trong tiếng Việt chúng ta dịch là ân hậu.
Ân điển, hay ân hậu có nghĩa là ban cho nhưng không. Lời nói của anh em đúng ra người đó đáng khiển trách, đáng lên án. Nhưng lời nói của chúng ta có ân hậu khích lệ họ, giúp cho họ nhìn thấy những khiếm khuyết. Và đem họ đến sự phục hồi với Chúa.
Đáng phải nói nặng nhưng không nói nặng mà nói lời yêu thương, khích lệ để anh em mình chạy đến với Chúa.
2.     Mỗi chúng ta phải khai trình về mọi tiền bạc của mình.
Chúa ban cho chúng ta tiền bạc để chúng ta quản lý, sử dụng,
“Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quan lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (I Phi-e-rơ 4:10)

Trong Ma-thi-ơ 25:14-30, Chúa Jesus kể một ví dụ: Một người chủ khi đi phương xa (Chúa Jesus đến thế gian, chịu chết, sống lại và đã thăng thiên về trời). Người chủ trao của cải cho các đầy tớ của mình (Chúa ban cho chúng ta các ân tứ để phục Ngài, chúng ta được gọi là  đầy tớ  của Chúa). Mỗi người đầy tớ được nhận số của cải khác nhau tùy theo khả năng mỗi người: người nhận được 5 ta-lâng, người nhận được 2, người nhận được 1 (Chúa biết rõ khả năng của mỗi người, Chúa ban ân tứ nào cho người nào là quyền quyết định của Chúa, không phải của chúng ta). Khi người chủ trở về để tính sổ (Khi Chúa Jesus trở lại tiếp rước tín đồ, chúng ta sẽ phải khai trình với Chúa cách chúng ta dùng các ân tứ Chúa ban).

Người đầy tớ làm lợi cho chủ mình được chủ khen: “Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, được lắm, ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi.” (Ma-thi-ơ 25:21). Chúng ta nhận thấy trong lời khen, người chủ không chú ý đến nguồn lợi mà người đầy tớ mang đến nhưng chú ý đến sự trung tín của người đầy tớ.

Chúng ta chú ý: Các ta-lâng mà những người đầy tớ nhận được là tài sản của người chủ, chứ không phải của người đấy tớ. Các ta-lâng được giao cho đầy tớ là để làm sinh lợi cho người chủ. Các người đầy tớ được tự do sử dụng tài sản của chủ theo ý của mình. Tương tự như vậy, Cơ-đốc nhân ngày nay là những người quản lý hay quản trị (steward) ân tứ Chúa ban cho để phục vụ cho Chúa. Chúng ta được tự do sử dụng ân tứ Chúa ban nhưng đồng thời chúng ta phải chịu trách nhiệm về cách chúng ta sử dụng ân tứ. Chúng ta sử dụng các ân tứ một cách trung tín sẽ được Chúa ban thưởng.
          "Vì Đức Chúa Trời sẽ đem ra xét xử mọi việc, kể cả những việc kín giấu, dù thiện hay ác" (Truyền Đạo 12:14 BTTHĐ).

II. LÝ DO PHẢI KHAI TRÌNH VỚI CHÚA
-         Vì để nhận phần thưởng hoặc là để chịu hình phạt
Trong thơ II Cô-rinh-tô 5:10 sứ đồ Phao-lô viết: “Bởi vì chúng ta thảy đều phải ứng hầu trước tòa án Đấng Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt.”

Nhiều con cái Chúa ngày nay hiểu lầm về sự phán xét của Chúa đối với tín đồ khi cho rằng ngày Chúa phán xét là ngày Chúa ban nước thiên đàng cho người tin nhận Chúa Jesus và trừng phạt người từ chối ơn cứu rỗi của Ngài trong hồ lửa đời đời. Kinh Thánh cho biết sự phán xét của Chúa đối với con cái của Ngài là để ban thưởng(reward) cho họ chiếu theo cách họ đã sống và những gì họ đã làm, chứ không phải là định tội hay kết tội (condemn) người tín đồ, để xem họ có đủ tiêu chuẩn vào Thiên đàng hay không. Vì những ai thật lòng tin nhận Chúa Jesus là Cứu Chúa của mình thì đương nhiên được cứu, Rô-ma 8:1 đã khẳng định: “Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào (hay định tội, condemn) cho những ai ở trong Đức Chúa Jesus Christ.” Hoặc Giăng 3:18:“Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét (nên dịch là “định tội”, condemn) đâu, ai không tin thì đã bị đoán xét (condemn) rồi”.

Đấng Christ sẽ đứng ở chỗ "bema " hay "khán đài" đó. Nếu sau khi được tái sanh (Giăng 3:3), chúng ta sống một đời sông trung tín hầu việc Chúa, hay làm việc tốt thì Đấng Christ sẽ thưởng cho chúng ta tại tòa án của Ngài.

Tại tòa án của Đấng Christ, hoặc chúng ta sẽ được phần thưởng, hoặc các việc làm của chúng ta sẽ bị đốt cháy như cỏ khô. Chúng ta có thê có rât ít phần thưởng hoăc không nhận được gì cả.

Mọi người trong chúng ta đều phải ứng hầu trước mặt Chúa để chịu phán xét. Không ai thoát khỏi sự phán xét đó cả. Kinh Thánh cho biết có ba tòa án - Tòa Án cho Các Quốc Gia, Tòa Án Đấng Cơ Đốc và Tòa Án Trắng Vĩ Đại.

Tòa Án cho Các Quốc Gia là lúc Chúa tách rời người ta như người chăn phân chiên và dê (Ma-thi-ơ 25:31-33). Tòa án này xảy ra sau Cơn Đại Nạn với mục đích xác định ai được vào nước nghìn năm bình an.

Tòa Án Đấng Cơ Đốc là nơi các Cơ Đốc nhân đến để "nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt" (2 Cô-rinh-tô 5:10). Đây không phải là tòa hình phạt vì đối với Cơ Đốc nhân, sự công chính của Đức Chúa Trời đã được đáp ứng đầy trọn tại thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Qua Chúa Giê-xu Cơ Đốc, tội nhân được kể là công chính. Tại tòa án này, Cơ Đốc nhân sẽ nhận lấy phần thưởng vì "công việc của mỗi người sẽ bày tỏ ra... Ví bằng công việc của ai xây trên nền được còn lại, thì thợ đó sẽ lãnh phần thưởng mình" (1 Cô-rinh-tô 3:13-14).

Tất cả những người không tin nhận Chúa sẽ ứng hầu trước "một tòa lớn và trắng cùng Đấng đang ngồi ở trên" (Khải Huyền 20:11) để chịu xét xử tùy theo việc họ đã làm (câu 13). Những người không có tên trong sách sự sống sẽ bị quăng vào hồ lửa đời đời (câu 15).

Có người tin ba cuộc xét xử này là một, mặc dù các tòa án này được đề cập đến nhiều lần khác nhau trong Kinh Thánh, nhưng kết quả của cuộc xét xử là người tin Chúa sẽ được hưởng Nước Trời và được phần thưởng, còn người không tin sẽ bị đoán phạt đời đời nơi hồ lửa (Khải Huyền 20:11-15; Ma-thi-ơ 25:46).

"Theo ơn Đức Chúa Trời ban cho tôi, tôi đã lập nền như một tay thợ khéo, mà có kẻ khác cất lên trên, nhưng ai nấy phải cẩn thận về sự mình xây trên nền đó. .. Nếu có ai lấy vàng, bạc, bửu thạch, gỗ, cỏ khô, rơm rạ mà xây trên nền ấy, thì công việc của mỗi người sẽ bày tỏ ra.

Ngày đến sẽ tỏ tường công việc đó. Nó sẽ trình ra trong lửa, và công việc mỗi người đáng giá nào lửa sẽ chỉ ra. .. Nếu công việc của họ bị thiêu hủy, thì mất phần thưởng. Còn về phần người đó sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy " (ICôr 3:10-15).

Phaolô nói rằng: "Nếu công việc của người nào đó còn lại thì họ sẽ được phần thưởng".
- Sự Cứu Rỗi Ban Cho Nhưng Không
- Phần Thưởng Là Do Công Khó Mà Đạt Được

Phần thưởng là do công việc của tín đồ (Mat 16:27).

Các câu Kinh Thánh trong ICôr 3:8-15 nói rõ về phần thưởng.


Bị Hổ Thẹn Lúc Ngài Đến

Đức Chúa Jêsus Christ ban cho mỗi tín đồ một công việc để làm. Nếu chúng ta bỏ qua mạng lênh của Ngài, chúng ta sẽ rất đau buồn và sợ hãi khi đứng trước mặt Ngài tại nơi phán xét. Hãy chú ý lời cảnh báo của Giăng:

"Hỡi các con bé mọn ta, hãy ở trong Ngài, hầu cho nếu Ngài hiện đến, chúng ta cũng đầy sự vững lòng, không bị hổ thẹn " (IGiăng 2:28).
Từ "hổ thẹn" có nghĩa "giật lùi lại vì sợ hãi và mất mặt".

Một số tín đồ sẽ giật lùi khỏi Đấng Christ trong sự xấu hổ lúc Ngài hiện đến vì đời sống của họ không có kết quả. Họ không kết quả vì họ không "đâm rễ sâu" trong Đâng Christ (xem Cô 2:7; Mat 13:3-10, 18-23).

Trong năm đầu tiên của chức vụ, một vị mục sư nọ ngồi bên cạnh một người bạn sắp chết của ông. Khi họ nói chuyện về việc ra đi của người sắp chết, nước mắt ông ấy tuôn chảy. Vị mục sư tưởng rằng người bạn của mình sợ chết nên ông cố nói những lời an ủi.

Nhưng người bạn nói: "Tôi không sợ chết, tôi chỉ thấy hổ thẹn khi phải chết". Ông tiếp tục nói rằng Đấng Christ là Cứu Chúa của ông, nhưng ông chỉ sống cho chính mình, và bây giờ ông sắp gặp Đức Chúa Jêsus Christ với hai bàn tay trắng. Cuộc đời của ông đã hiện ra trước mắt ông như "gỗ, cỏ khô và rơm rạ ". Ông được cứu nhưng ông không có môt công việc có giá trị đời đời cụ thể nào để dâng cho Chúa cả (ICôr 3:15).

Trong Thánh-kinh thì khẳng định rằng: Gieo gì gặt lấy.
“Chớ hề dối mình; Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy. 8 Kẻ gieo cho xác thịt, sẽ bởi xác thịt mà gặt sự hư nát; song kẻ gieo cho Thánh Linh, sẽ bởi Thánh Linh mà gặt sự sống đời đời. 9 Chớ mệt nhọc về sự làm lành, vì nếu chúng ta không trễ nải, thì đến kỳ, chúng ta sẽ gặt. 10 Vậy, đương lúc có dịp tiện, hãy làm điều thiện cho mọi người, nhứt là cho anh em chúng ta trong đức tin.” ( Ga-la-ti 6:7-10)

Kh 22:12 “Nầy, ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm.”

Đây là một sự khích lệ lớn lao, bởi phần thưởng này không phải được trao bởi con người, mà được chính Chúa Giêxu, Đấng Tạo hóa ban cho. Trong câu Kinh Thánh nói đến ở trên, người ban phần thưởng cho bạn không phải là một người bình thường, đó là Chúa Giêxu, là Đức Chúa Trời, Đấng đã tạo dựng nên bạn và tôi. Thật là vinh dự, và chắc chắn không có vinh dự nào có thể sánh bằng. Đó là điều quá tuyệt vời.

“Bởi lòng ngươi cứng cỏi, không ăn năn, thì tự chất chứa cho mình sự giận về ngày thạnh nộ, khi sẽ hiện ra sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời, 6 là Đấng sẽ trả lại cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” ( Rô-ma 2:6)

Thưa quý ông bà anh chị em! Nếu kẻ công bình và gian ác cùng chết một ngày và số phận như nhau thì chắc chắn đã không có
Ai đã làm lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị xét đoán.” ( Giăng 5:29)

Ma-thi-ơ 16: 27

III.             THỜI ĐIỂM KHAI TRÌNH VỚI CHÚA
Vua Sa-lô-môn đã nói trong sách Truyền-đạo rằng: “Hỡi kẻ trẻ kia, hãy vui mừng trong buổi thiếu niên, khá đem lòng hớn hở trong khi còn thơ ấu, hãy đi theo đường lối lòng mình muốn, và nhìn xem sự mắt mình ưa thích, nhưng phải biết rằng vì mọi việc ấy, Đức Chúa Trời sẽ đòi ngươi đến mà đoán xét.” ( Truyền đạo 11:9)

Hiện nay chưa phải là lúc Chúa thi hành sự phán xét đối với tín đồ, chúng ta có thể thấy những chuyện bất công xãy ra trong cộng đồng những người tin Chúa (ví dụ: có những người tin Chúa làm việc sai trái mà vẫn bình an vô sự, trong khi những người kính sợ Chúa thì gặp khó khăn v.v…) Nhưng sẽ đến thời điểm Chúa phán xét tất cả mọi người cách công bình, mỗi người sẽ nhận lấy hậu quả của việc mình làm. Chúng ta biết được thời điểm của sự phát xét căn cứ vào các phần Kinh Thánh sau:

“Song khi ngươi đãi tiệc, hãy mời những kẻ nghèo khó, tàn tật, què, đui, thì ngươi sẽ được phước, vì họ không có gì để trả lại cho ngươi; đến kỳ kẻ công bình sống lại ngươi sẽ được trả.”  (Lu-ca 14:13-14)

Theo lời dạy trên, những ai bày tỏ tình thương với những người khó khăn sẽ được Chúa ban thưởng lại vào thời điểm “người công bình sống lại”. Vậy, lúc nào người công bình (là những người tin Chúa Jesus) sống lại? Chúng ta có câu giải đáp sau:

“Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết.”  (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16)

“Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn.”  (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:17)

Lúc những người công bình sống lại là lúc Chúa Jesus đến trên không trung kêu họ sống lại, và những người tin Chúa đang sống vào thời điểm đó sẽ được biến hóa thân thể (I Cô-rinh-tô 15:52) và sẽ cùng với họ được Chúa cất lên không trung. Như vậy, Chúa Jesus sẽ thi hành sự phán xét ngay sau khi Chúa đến tiếp rước Hội Thánh lên trời. Chúa Jesus phán: “Nầy Ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm.”  (Khải Huyền 22:12)

-         Phải ứng hầu trước mặt Chúa ( Tức là khi về gặp Chúa)
IICo 4:14   vì biết rằng Đấng đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại cũng sẽ làm cho chúng tôi sống lại với Đức Chúa Jêsus, và làm cho chúng tôi ứng hầu với anh em trước mặt Ngài.”

“Bởi lòng ngươi cứng cỏi, không ăn năn, thì tự chất chứa cho mình sự giận về ngày thạnh nộ, khi sẽ hiện ra sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời, 6 là Đấng sẽ trả lại cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” ( Rô-ma 2:1-6)
                                                
Sự phán xét của Chúa và sự tự phán xét chính mình.

Một vấn đề thực tế trong cuộc sống cần được giải đáp: Nếu một tín đồ đã từng phạm một tội quan trọng nào đó, chiếu theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh nêu trên, tội lỗi đó sẽ bị phơi bày ra trong ngày Chúa phán xét, như vậy, làm thế nào người đó có thể tránh khỏi sự phán xét của Chúa? Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, Chúa biết rõ chúng ta sẽ bị xấu hổ khi tội chúng ta bị đem ra ánh sáng, nên Chúa ban cho một giải pháp: Đó là sự tự phán xét chính mình (self-judgment).

“Nếu chúng ta biết xét đoán lấy mình, thì khỏi bị xét đoán” (For if we would judge ourselves, we should not be judged) (I Cô-rinh-tô 15:31)

Để tránh khỏi bị Chúa xét xử trong ngày Chúa trở lại về một tội nào đó, chúng ta phải tự làm quan án cho chính mình ngay bây giờ, chúng ta phải tự phán xét chính mình trước ánh sáng của Lời Chúa.

Sự tự phán xét chính mình bao gồm các bước sau:

- Trước hết, chúng ta phải thành thật công nhận rằng mình đã phạm tội với Chúa, đã không sống đúng theo tiêu chuẩn Chúa dạy trong Kinh Thánh.

- Kế đến, hãy đối mặt với Chúa và xưng tội mình qua sự cầu nguyện. Đừng xem thường sự ăn năn tội của mình. Luôn nhớ rằng mình là một tội nhân đang đối diện với Đấng thánh khiết.

- Sau hết, cầu xin Chúa tha thứ tội của mình một cách thành khẩn và quyết lòng từ bỏ tội lỗi.

Một khi chúng ta thành thật ăn năn tội trước mặt Chúa, Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch tội hoàn toàn vì Chúa hứa như vậy (I Giăng 1:9), phương đông xa cách phương tây bao nhiêu thì Chúa cũng đem tội của chúng ta xa khỏi chúng ta bấy nhiêu (Thi Thiên 103:12), Chúa đạp tội lỗi chúng ta dưới chân Ngài, Chúa ném tội lỗi chúng ta xuống đáy biển (Mi-chê 7:19), Chúa không còn nhớ đến tội lỗi của chúng ta nữa (Giê-rê-mi 31:34). Như vậy, chúng ta sẽ dạn dĩ đứng trước mặt Chúa trong ngày phán xét.








Đề tài: AN-NE NGƯỜI PHỤ NỮ YÊN LẶNG VÀ SỰ CẦU NGUYỆN

0
Đề tài: AN-NE NGƯỜI PHỤ NỮ YÊN LẶNG VÀ SỰ CẦU NGUYỆN
Kinh-thánh: I Sa-mu-ên 1:1-28

Lời chào mừng:

NHẬP ĐỀ:
Thưa Hội-thánh!
Người Việt Nam chúng ta thường có câu: “Ngọc nhìn lâu sẽ tìm thấy vết. Hoa để gần sẽ hết mùi hương”. Khi hai người lúc mới yêu nhau thì lúc nào cũng chỉ thấy cái đẹp của nhau, cái mùi thơm của nhau, chỉ thấy cuộc sống là màu hồng. Nhưng khi về sống chung với nhau một thời gian thì sẽ thấy cái đẹp đó biến đi đâu mất hết.

Dù vợ hoặc chồng có đẹp đến mấy nhưng khi sống lâu sẽ thấy được họ cũng có rất nhiều những vết và khiếm khuyết. Trong thực tế cho thấy cuộc sống gia đình không phải lúc nào cũng bình ổn, hay phẳng lặng cả.

Trong phân đoạn Kinh-thánh mà sáng nay quý ông bà anh chị vừa đọc cho chúng ta thấy một gia đình cũng xảy ra rất nhiều những hiềm khích và mâu thuẫn đó là gia đình nhà Ên-ca-na.

THÂN BÀI:
Nương vào lời Chúa, tôi sẽ chia sẻ với Hội Thánh 3 ý chính sau đây: (1) AN-NE YÊN LẶNG ĐỂ TÌM SỰ YÊN ỦI NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI ( 2) ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÁP LỜI VƯỢT QUÁ SỰ CẦU NGUYỆN CỦA AN-NE ( 3) AN-NE NGƯỜI MẸ TRẢ SỰ HỨA NGUYỆN

Bây giờ, xin mời quý ông bà anh chị em cùng học phần thứ nhất:

I. AN-NE YÊN LẶNG ĐỂ TÌM SỰ YÊN ỦI NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong chương 1 câu1- 2 Lời Chúa cho chúng ta biết: Gia đình nhà ông Ên-ca-na sống tại miền quê đồi núi Ép-ra-im. Đây là một nơi  cách nơi thờ phượng Chúa là thành Si-lô khoảng hơn 30 km.

“ Ên-ca-na có hai vợ, người nầy tên là An-ne, và người kia tên là Phê-ni-na. Phê-ni-na có con, còn An-ne không có.”

Ên-ca-na là một người tốt và tin kính Chúa ngoại trừ chi tiết ông có hai vợ. Và chúng ta không biết tại sao ông lại có hai vợ. Nhưng dựa theo bối cảnh bản văn thì chúng ta được biết rằng: Có lẽ vì do bà An-ne là vợ đầu không có con, lên ông đã cưới Phê-ni-na để có con nối dõi tông đường.

Và đây cũng chính là vấn nạn và nan đề đã xảy ra biết bao những hiềm khích, mâu thuẫn, ghen tỵ và đố kỵ trong gia đình nhỏ này.

Lời Chúa trong câu 3-6 tác giả cho chúng ta biết: “Mỗi năm, Ên-ca-na ở thành mình đi lên Si-lô đặng thờ phượng Đức Giê-hô-va vạn quân, và dâng của tế lễ cho Ngài; tại Si-lô có hai con trai của Hê-li, là Hóp-ni và Phi-nê-a, thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va.

4 Đến ngày Ên-ca-na dâng tế lễ, thì chia của lễ ra từng phần ban cho Phê-ni-na, vợ mình, và cho các con trai và con gái mình. 5 Nhưng người lại ban cho An-ne một phần bằng hai, vì người thương nàng, dẫu rằng Đức Giê-hô-va khiến cho nàng son sẻ. 6 Kẻ phân bì nàng khôn xiết trêu ghẹo nàng, để giục nàng lằm bằm vì Đức Giê-hô-va đã khiến nàng son sẻ. 7 Từ năm nầy đến năm kia, mỗi khi nàng đi lên đền Đức Giê-hô-va, chồng đãi nàng như vậy, còn Phê-ni-na cứ trêu ghẹo nàng; An-ne khóc và không ăn.”
Thưa quý vị!
Có bao giờ, quý vị đi thờ phượng Chúa mà bị người nào đó trêu trọc, và hạ nhục chưa? Thường một người xa lạ mà trêu chọc, đâm bị thóc, chọc bị gạo cũng là việc rất khó chịu rồi huống hồ đây là một người sống cùng nhà, ăn cùng mâm thì lại càng đau khổ biết dường bao.
Nếu chúng ta hỏi bà An-ne thì bà sẽ nói cho chúng ta biết bà thường bị như vậy dù ở nhà hoặc khi lúc khi lên đền thờ.

Ở nhà thì Phê-ni-na cứ tìm đủ mọi cách để trêu chọc, trọc tức và hạ nhục bà An-ne. Nhưng Phê-ni-na cũng làm những điều đó ngay cả trong những ngày đi thờ phượng Chúa nữa kia.

Mặc dầu đi trên đường để đến Si-lô để thờ phượng Ngài mà Phê-ni-na vẫn cứ giữ cái bản chất ganh ghét, đố kỵ, chêu trọc và hạ nhục An-ne. Mặc dầu trong những ngày ở tại Si-lô dâng của lễ và thờ phượng Chúa như vậy mà Phê-ni-na bản chất vẫn không có gì là thay đổi cả.

Phê-ni-na là hình ảnh của một Cơ Đốc nhân không được tái sanh, nối sống, lời nói, và tấm lòng đầy dẫy những ác ý, tranh cạnh, ghen ghét, thóa mạ, làm nhục người khác.

Mặc dầu có đi lên đền thờ đó, có dâng của lễ đó, nhưng đời sống vẫn chẳng có gì thay đổi, mặc dầu có dâng của lễ nhưng đời sống bà chẳng phải là một của lễ tốt cho Chúa.

Ngày nay, nhìn vào Hội Thánh hay chính mình chúng ta, chúng ta cũng nhìn thấy chính mình có những lúc chính chúng ta là những  Phê-ni-na. Mặc dầu tôi mang danh là con cái Chúa đấy nhưng chẳng có Chúa ở đâu trong đời sống mình hết.

Trong tất cả những lời thóa mạ, trêu chọc và hạ nhục của Phê-ni-na, An-ne vẫn cho thấy phẩm chất của bà cao đẹp. Gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bùn.

Chúng ta thấy trong suốt bối cảnh của đoạn Kinh-thánh thì bà An-ne không thấy bà nói một lời nói trả đủa nào đối với Phê-ni-na cả.

An-ne đã không ăn miếng trả miếng, không lấy rủa sả trả rủa sả. Trong mọi việc bà giữ tấm lòng yên lặng trước mặt Đức Chúa Trời.
Tên “An-ne” có nghĩa là “người nữ hiền lành”, và bà đã sống đúng với cái tên ấy trong cách đối diện với tình trạng son sẻ của mình cũng như đối với thái độ và lời lẽ cay độc của Phê-ni-na.
Việc không có con là một nỗi khổ lớn nhưng bà An-ne còn khổ tâm hơn vì luôn luôn bị Phê-ni-na đem chuyện không con ra trêu chọc, chế giễu.
Trong câu 5 tác giả cho chúng ta biết: “ bà An-ne được chồng rất yêu thương, rồi xuống câu 8 chúng ta thấy sự quan tâm rất sâu sắc của ông Ên-ca-na đối với bà An-ne: “Ên-ca-na, chồng nàng, nói rằng: Hỡi An-ne, sao nàng khóc? Cớ sao không ăn và lòng buồn bực dường ấy? Ta há chẳng đáng cho nàng hơn mười đứa con trai ư?”

Mặc dầu, bà An-ne được chồng yêu thương nhiều hơn, quan tâm và chia sẻ, cảm thông với bà xong chúng ta không hề thấy bà An-ne đi kể chuyện xấu và lời nói độc địa của Phê-ni-na cho chồng mình nghe.
Bà giữ im lặng, bà không hề kể với chồng của mình. Bà giữ yên lặng không kể chuyện xấu của Phê-ni-na cho chồng điều đó cũng dạy cho tất cả mỗi chúng ta một bài học rất quý giá trên bước đường theo Chúa.
“ Yên lặng trong lúc bị trêu trọc là rất quý giá, yên lặng trong lúc bị hạ nhục là vàng”.

Đôi khi nói ra cũng không phải là điều tốt, mặc dầu điều chúng ta nói có thể không sai. Nhưng giữ thái độ yên lặng trước những lời thóa mạ, nhục mạ của người khác là khôn ngoan.
Minh họa: Người ta đã vẻ một bức hình hằng ngày con cái của Phê-ni-na ngồi ăn vui vẻ quây quần bên mâm cơm bên cạnh có kẻ hầu người hạ. Trong bức tranh ánh mắt khinh bỉ và điệu cười châm biếm của Phê-ni-na. Điều đó đã khiến cho bà An-ne ngậm ngùi quay mặt và lấy tay gặt nước mắt đi.

Không hề trả đũa, không hề một lời ra khỏi miệng.
Minh họa: Khi Chúa Giê-xu bị người ta chế diễu, đánh đập và nhục mã, Ngài đã giữ thái độ như chiên câm đứng trước mặt kẻ hớt lông.

Tiên tri Ê-sai đã nói về thái độ của Ngài rằng: Ngài chẳng hề mở miệng đến nỗi một lời lành cũng không.

Bà An-ne không kể chuyện xấu của Phê-ni-na cho chồng mình điều đó cũng dạy cho chúng ta biết. Bà thay vì tìm sự yên ủi và bảo vệ từ người chồng của mình thì bà đã trải lòng trước mặt Chúa qua sự cầu nguyện để tìm sự yên ủi của Đức Chúa Trời.

Thay vì bà mong chồng đứng ra xét lẽ công bình cho mình thì bà đã trao phó mọi trăn trở, u sầu, buồn tủi của mình cho Đức Chúa Trời để Đức Chúa Trời xét lẽ công bình cho bà.

Minh họa: Nếu chúng ta bị ai đó hạ nhục, xúc phạm thì thường tìm đến một người nào đó yêu thương chúng ta để tìm sự ủng hộ và bênh vực của người đó cho mình.
Nhưng khi mình chạy đến với con người tức là mình hoàn toàn chưa chạy đến với Đức Chúa Trời.
Con người chúng ta ở trong xác thịt mà xác thịt luôn tìm những gì có lợi cho bản thân chứ không chịu yên lặng, hy sinh và vì người khác.
Lời Chúa trong tiên tri Ê-sai qua ông Chúa đã phán cho dân sự của Ngài rằng: “Các ngươi sẽ được rỗi, là tại trở lại và yên nghỉ; các ngươi sẽ được sức mạnh, là tại yên lặng và trông cậy. Nhưng các ngươi đã không muốn thế! ( Ê sai 30:15)

Nghe đến tên Ma-ri, chúng ta suy nghĩ đến một thiếu nữ hiền lành, đạo đức. Ai cũng say mê nhắc nhở Ma-ri với lòng ngưỡng mộ, tôn kính. Ðức hạnh tuyệt vời đó cũng có trong Giô-sép, nhưng Joseph dường như bị lãng quên trong câu chuyện Giáng Sinh. Mấy ai làm thơ, viết nhạc ca tụng con người khiêm tốn, trầm lặng nầy?

Joseph đóng vai phụ, nhỏ bé, tầm thường. Chúng ta thấy Ma-ri ngồi trên lưng lừa, còn Joseph? Kiên nhẫn cầm dây cương lội bộ - suốt đoạn đường từ Na-xa-rét đến Bết-lê-hem! Joseph lội bộ đường sa mạc xa xôi đưa Hài Nhi Jesus và Ma-ri lánh nạn qua Ai-cập (Ma-thi-ơ 2:14). Joseph yên lặng đứng lùi lại đàng sau trong chuồng lừa khi các mục tử đến tôn thờ Hài Nhi Thánh.

Anh Chị có biết rằng tên ông không được nhắc đến khi các vương tử miền đông chiêm ngưỡng và dâng lễ vật (2:11)? Hầu hết các nhân vật trong câu chuyện Giáng Sinh đều nói. Vua, thầy tế lễ, thầy dạy luật, mục tử, các nhà bác học nói. Mari nói. Joseph không nói.

Ông làm gì? Ma-thi-ơ 1:24: “Giô-sép làm y như lời thiên sứ dặn.” Yên lặng, vâng lời, phục vụ. Joseph yên lặng. Yên lặng là vàng. Yên lặng gây tiếng vang. Quý hơn trăm triệu lời nói văn hoa. Joseph nói lên lời cao quý qua tâm tình, thái độ và nếp sống của mình.
Joseph không ăn miếng trả miếng, không giận dữ, thù hận – khi người khác gièm chê, cười cợt, châm biếm, chỉ trích: “Chưa cưới mà có bầu. Nuôi con ông hàng xóm. Dại, khùng, đồ ngu!” Thái độ yên lặng của người quân tử, nhẫn nhục, cao thượng. Ma-thi-ơ 1:19 gọi ông là? Người có nghĩa!

Thái độ của Joseph gây tiếng vang hùng hồn hơn một vạn lời thơ trống rỗng. Tâm tình kính sợ, vâng phục Chúa của ông thành khẩn, mãnh liệt hơn những bài ca trong cuộc đời.


II. ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÁP LỜI VƯỢT QUÁ SỰ CẦU NGUYỆN CỦA AN-NE

An-ne để lại cho chúng ta một tấm gương tốt về sự cầu nguyện. Lời cầu nguyện của bà buồn rầu và khốn khổ, nhưng dù cho cảm xúc của bà thế nào, bà đã phơi bày tấm lòng của mình trước mặt Chúa.
Lời Chúa trong câu 10 có chép “An-ne lấy làm sầu khổ trong lòng, vừa cầu khẩn Đức Giê-hô-va, vừa tuôn tràn giọt lệ.”
Đây là câu Kinh-thánh mô tả tâm trạng và nỗi lòng cùng sự đau khổ của bà An-ne đối với Đức Chúa Trời.
An-ne một con người đau khổ đã tìm đến Đức Chúa Trời.
An-ne một con người đau khổ dốc đổ với Đức Chúa Trời.
An-ne một con người đau khổ đã được chữa lành bằng sự cầu nguyện.
Trong bối cảnh của phân đoạn Kinh-thánh này, thì có ba hạng người sống bên cạnh An-ne nhưng không ai hiểu được nỗi lòng của bà.
1.    Ên-ca-na
2.    Phê-ni-na
3.    Thầy-tế-lễ Hê-li.
Không ai hiểu được nỗi sầu khổ của bà cả, cũng không ai giải quyết được nỗi sầu khổ của bà ngoài chính mình Đức Chúa Trời.
Năm điều cần có trong lời cầu nguyện khi chúng ta thấy trong lời cầu nguyện của An-ne và đây cũng chính là những điều chúng ta lên có trong lời cầu nguyện mỗi khi đến với Đức Chúa Trời và mong Ngài đáp lời.
(1)            Tấm lòng
(2)            Cầu khẩn
(3)            Nước mắt
(4)            Khiêm nhường ( con đòi)
(5)             


Nếu hôm nay, chúng ta lấy lời cầu nguyện mẫu của An-ne để soi vào lời cầu nguyện của chúng ta thì sẽ thấy chúng ta thiếu điều gì trong ba điều ấy.

-         Trước hết, là bà đã trải lòng ra trước mặt Chúa. Tức là bà không hề dấu diếm điều gì với Chúa hết, mặc dầu điều đó có thể là không phải là điều tốt đi chăng nữa.
Trong câu 15 An-ne nói với thầy-tế-lễ Hê-li rằng: “ Tôi giãi bày lòng tôi ra trước mặt Đức-Giê-hô-va.”

Cầu nguyện là gì là giãi bày lòng mình ra trước mặt Chúa.
Trong bản dịch khác dịch là: “tôi chỉ thổ lộ tâm can trước nhan ĐỨC CHÚA. [GKPV]
Tôi chỉ dốc đổ lòng tôi ra trước mặt CHÚA. [BDM]

Một loạt các động từ: “ dốc đổ, thổ lộ, giãi bày” là những diễn từ mô tả cái nỗi lòng sâu thẳm bên trong của bà với Đức Chúa Trời.
Minh họa: Chúng ta thường đến với Chúa bằng những lời cầu nguyện xáo rỗng bề ngoài mà thiếu sự dốc đổ, thiếu sự giãi bày, bà thổ lộ trước mặt Chúa phải không?

Tác giả của Thi-thiên 62: 8 Lời Chúa kêu gọi “Hỡi bá tánh, khá nhờ cậy nơi Ngài luôn luôn, Hãy dốc đổ sự lòng mình ra tại trước mặt Ngài.”

An-ne vừa khóc vừa dốc đổ lòng mình trước mặt Chúa. Theo lời Thánh Kinh ghi, nàng không cầu nguyện thành lời nhưng chỉ thầm nguyện với tấm lòng khẩn thiết, với nỗi niềm không thể nói nên lời. Ðây là lời cầu xin tha thiết, từ tấm lòng tan vỡ chân thành. Khi cầu nguyện, An-ne thật sự tâm giao với Chúa, hướng trọn linh hồn và tâm thần về Chúa, nàng không để ý đến người chung quanh, cũng không cần biết người chung quanh nghĩ gì về mình.

-         Thứ hai, bà đã đối diện với đau khổ bằng sự cầu nguyện.

Dù đau buồn vì không con nhưng An-ne không tuyệt vọng, nàng không đầu hàng hoàn cảnh. Trái lại, An-ne tìm thấy hy vọng nơi Ðức Chúa Trời qua lời cầu nguyện. Trong ngày lên đền thờ, An-ne đã dành thì giờ cầu nguyện với Chúa. Nàng tin rằng Chúa là Ðấng Tạo Hóa, Ngài  có thể phá bỏ định luật thiên nhiên và ban cho nàng đặc ân làm mẹ. Lời cầu nguyện của An-ne rất là rõ ràng và chính đáng. Bà không cầu xin Chúa trừng phạt Phê-ni-na và những người làm khổ mình, cũng không xin Chúa cất đi niềm vui và hạnh phúc của họ. An-ne chỉ xin một điều, xin Chúa đoái xem nỗi sầu khổ của nàng và ban cho nàng một đứa con trai.

-         Thứ ba, bà đã cầu nguyện trong nước mắt.
Nước mắt đối với người đời chỉ như giọt nước rơi vô ích. Nhưng đối với Đức Chúa Trời thì nó không vô ích bao giờ.
Trong Kinh-thánh nói đến rất nhiều nước mắt. Nhưng một trong những câu Kinh-thánh nỗi tiếng đó là Thi-thiên 6:8 “Hỡi kẻ làm ác kia, khá lìa xa ta hết thảy; Vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng khóc lóc ta.”

“Chúa đếm những bước tha hương của tôi! Xin Chúa để nước mắt tôi trong ve của Chúa, Nước mắt tôi chẳng được ghi vào sổ Chúa sao” (Thi Thiên 56:8)?

Nước mắt của bà An-ne là những giọt nước mắt chân thành đến từ một con người đau khổ và đến từ một tấm lòng trĩu nặng.

Chúng ta có một gương mẫu vĩ đại mà tác giả thư Hê-bơ-rơ chỉ cho chúng ta: “Khi Đấng Christ còn trong xác thịt, thì đã kêu lớn tiếng khóc lóc mà dâng những lời cầu nguyện nài xin cho Đấng có quyền cứu mình khỏi chết, và vì lòng nhân đức Ngài, nên được nhậm lời.” ( Hê-bơ-rơ 5:7)

Nếu Thiên Chúa có thể khóc, thì tôi cũng có thể khóc.

Chúng ta không đau đớn một mình. Chính Chúa Giêsu cũng biết nỗi đau khi khóc than vì mất người thân. Một trong những trang cảm động nhất Tin mừng, Chúa Giêsu thấy Maria khóc thương em trai Lazarô vừa chết của mình. Và Chúa Giêsu cũng không cầm được nước mắt. Ngài xúc động và bắt đầu khóc.

Những giọt nước mắt của Chúa Giêsu là thuốc giải độc cho sự lãnh đạm của tôi trước đau khổ của anh chị em mình. Những giọt nước mắt của Ngài dạy tôi biết xem nỗi đau của người khác là của mình, biết chia sẻ những nản lòng và đau đớn của những người đang đau khổ.
Những giọt nước mắt của Chúa Giêsu cho tôi nhận ra sự đau buồn và tuyệt vọng của những người phải chứng kiến người thân yêu của mình bị bắt đi, những người không biết tìm đâu sự an ủi. Những giọt nước mắt của Chúa Giêsu cần lời đáp của những người tin nơi Ngài. Như Ngài hằng an ủi, thì chúng ta cũng được kêu gọi hãy an ủi.

Tiên tri Giê-rê-mi được mệnh danh là tiên tri của nước mắt. Khi ông đi rao giảng

Gie 9:1   1 Ôi! Ước gì đầu tôi là suối nước, mắt tôi là nguồn lụy! Hầu cho tôi vì những kẻ bị giết của con gái dân ta mà khóc suốt ngày đêm.
Ca 1:16   16 Vậy nên ta khóc lóc; mắt ta tuôn nước mắt;
Vì kẻ yên ủi làm tỉnh hồn ta thì đã xa ta.
Con cái ta bị đơn chiếc, vì kẻ thù đã thắng trận.
Ca 2:11   11 Mắt ta hao mòn vì chảy nước mắt, lòng ta bối rối;
Gan ta đổ trên đất, vì sự hủy diệt con gái dân ta.
Vì con trẻ và các con đương bú, ngất đi nơi các đường phố trong thành.
Ca 2:18   18 Lòng dân ngươi kêu van đến Chúa.
Hỡi tường thành con gái Si-ôn, hãy cho nước mắt ngươi ngày đêm chảy như sông!
Đừng cho nghỉ ngơi; con ngươi mắt ngươi chẳng thôi.
Ca 3:49   49 Mắt tôi tuôn nước mắt, không thôi cũng không ngớt,





- Thứ tư, bà đã cầu nguyện trong sự khiêm nhường.
Bà đến với Chúa xưng hô với Chúa: Bà sử dụng chữ “ con đòi”

Khiêm nhường: Kế đến, bà An-ne bày tỏ thái độ khiêm nhường trong khi cầu nguyện “ bà đã tự xem mình là con đòi Ngài”  động từ “ con đòi hay nữ tỳ” Từ Hán Việt có nghĩa là Đầy tớ gái, hay là nghĩa là kẻ hèn mọn.



Ý mun nói lên bà ch là k hèn mn cn được Chúa thương xót, bà không cho là bà xng đáng được nhn, nhưng tùy vào lòng nhân t và s thương xót ca Chúa.

Đây là mt thái đ khiên nhường ca mt người khi cu nguyn:

Minh ha: Trong Phúc-âm Luca 18 Chúa Giê-xu có k mt ví d v hai người cùng lên đn th cu nguyn. Mt người Pha-ri-si và mt người thâu thuế.
“Người Pha-ri-si đng cu nguyn thm như vy: Ly Đc Chúa Tri, tôi t ơn Ngài, vì tôi không phi như người khác, tham lam, bt nghĩa, gian dâm, cũng không phi như người thâu thuế ny. 12 Tôi kiêng ăn mt tun l hai ln, và np mt phn mười v mi món li ca tôi. 13 Người thâu thuế đng xa xa, không dám ngước mt lên tri, đm ngc mà rng: Ly Đc Chúa Tri, xin thương xót ly tôi, vì tôi là k có ti! 14 Ta nói cùng các ngươi, người ny tr v nhà mình, được xưng công bình hơn người kia; vì ai t nhc mình lên s phi h xung, ai t h mình xung s được nhc lên.

Người Pha-ri-si chy đến vi Chúa cu nguyn đ k ra nhng vic làm đo đc, công danh, s nghip đóng góp cho nhà Chúa, t đc ý và hãnh din vào nhng vic làm công bình riêng ca mình.

Còn người thâu thuế thì đng xa xa, không dám ngước mt lên tri, đám ngc cu nguyn Ly Đc Chúa Tri, xin thương xót ly tôi, vì tôi là k có ti!
Có nhng người cu nguyn dài nhưng li cu nguyn theo kiu ca người Pha-ri-si nhưng có nhng người cu nguyn ngn nhưng li là li cu nguyn được Chúa đp lòng nhn li.

Người thâu thuế cu nguyn rng: Xin thương xót ly tôi, vì tôi là k có ti, tôi không xng đáng, tôi không phi là người công bình, tôi không là gì hết.
Có nhiu khi chúng ta đến vi Chúa mà c như th chúng ta ra lnh cho Chúa: Phi thành cái này, phi được cái kia, mà thiếu đi tm lòng ca mt con đòi, thiếu đi s khiêm nhường ca mt n tỳ. Tôi và quý v không có gì xng đáng trước mt Chúa đâu, du chúng ta làm nhiu vic cho Chúa đi chăng na thì chúng ta cũng chng khác chi con đòi hoc n tỳ mà thôi. Vic Chúa đáp li, nhn li cu nguyn ca chúng ta cũng ch vì Chúa thương xót, đoái đến mà thôi.

- Thứ năm, bà cầu nguyện
























Quý vị có đang gặp phải nỗi sầu khổ nào không? Quý vị sẽ đối diện với những điều đó như thế nào?

Có phải quý vị lằm bằm, chán nản, thật vọng và bỏ cuộc không? Đứng trước một nan đề rất lớn là bị son sẻ không con, người người châm biếm, mỉa mai. Nhưng An-ne đã không chịu khuất phục bà đã thể hiện vài trò của một người nữ đầy đức tin đó là chạy đến với Đức Chúa Trời.



III. AN-NE NGƯỜI MẸ TRẢ SỰ HỨA NGUYỆN
























Từ núi Ép-ra-im đến Si-lô là một đoạn đường dài hơn 30 km, chuyến đi bộ kéo dài một hoặc hai ngày. Trong chuyến đi ấy mặc dù An-ne biết sẽ bị tình địch là Phê-ni-na đối xử tệ bạc xong bà vẫn cứ đi.

Trong cuộc đời theo Chúa của chúng ta cũng có rất nhiều Phê-ni-na ngăn trở chúng ta để không có thể đi lên thờ phượng Chúa được. Nhiều lần Ma-quỷ đã đặt Phê-ni-na trong bước đường chúng ta đi thờ phượng Chúa.

Đó có thể là chồng vợ, con cái, công ăn việc làm, hoặc một biến cố hoặc lời nói nào đó khiến chúng ta chán nản, ngã lòng bỏ cuộc không tiếp tục đi lên thờ phượng Chúa nữa.

Minh họa: Pha-ra-ôn rất thâm độc và đầy sự khôn khéo đã đặt những Phê-ni-na để ngăn trở tuyển dân của Chúa không đi lên thờ phượng và dâng của lễ cho Chúa được.

Nó bắt đóng gạch, nhưng phải tự đốt bằng rơm, nó cho đàn ông đi mà không cho đàn bà và con nít đi. Nó cho đàn bà con nít đi xong không cho bò lừa đi.


          Pha-ra-ôn đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên vào đồng vắng.
“Vả, khi Pha-ra-ôn đến gần, dân Y-sơ-ra-ên ngước mắt lên, thấy dân Ê-díp-tô đuổi theo, bèn lấy làm hãi hùng, kêu van Đức Giê-hô-va. 11 Chúng lại nói cùng Môi-se rằng: Xứ Ê-díp-tô há chẳng có nơi mộ phần, nên nỗi người mới dẫn chúng tôi vào đồng vắng đặng chết sao? Người đưa chúng tôi ra xứ Ê-díp-tô để làm chi? 12 Chúng tôi há chẳng có nói cùng người tại xứ Ê-díp-tô rằng: Để mặc chúng tôi phục dịch dân Ê-díp-tô, vì thà rằng phục dịch họ còn hơn phải chết nơi đồng vắng? 13 Môi-se đáp cùng dân sự rằng: Chớ sợ chi, hãy ở đó, rồi ngày nay xem sự giải cứu Đức Giê-hô-va sẽ làm cho các ngươi; vì người Ê-díp-tô mà các ngươi ngó thấy ngày nay, thì chẳng bao giờ ngó thấy nữa. 14 Đức Giê-hô-va sẽ chiến cự cho, còn các ngươi cứ yên lặng.”


Xu 14:14   14 Đức Giê-hô-va sẽ chiến cự cho, còn các ngươi cứ yên lặng.




 Lời cầu nguyện của An-ne
Dù đau buồn vì không con nhưng An-ne không tuyệt vọng, nàng không đầu hàng hoàn cảnh. Trái lại, An-ne tìm thấy hy vọng nơi Ðức Chúa Trời qua lời cầu nguyện. Trong ngày lên đền thờ, An-ne đã dành thì giờ cầu nguyện với Chúa. Nàng tin rằng Chúa là Ðấng Tạo Hóa, Ngài  có thể phá bỏ định luật thiên nhiên và ban cho nàng đặc ân làm mẹ. Lời cầu nguyện của An-ne rất là rõ ràng và chính đáng. Bà không cầu xin Chúa trừng phạt Phê-ni-na và những người làm khổ mình, cũng không xin Chúa cất đi niềm vui và hạnh phúc của họ. An-ne chỉ xin một điều, xin Chúa đoái xem nỗi sầu khổ của nàng và ban cho nàng một đứa con trai.
An-ne vừa khóc vừa dốc đổ lòng mình trước mặt Chúa. Theo lời Thánh Kinh ghi, nàng không cầu nguyện thành lời nhưng chỉ thầm nguyện với tấm lòng khẩn thiết, với nỗi niềm không thể nói nên lời. Ðây là lời cầu xin tha thiết, từ tấm lòng tan vỡ chân thành. Khi cầu nguyện, An-ne thật sự tâm giao với Chúa, hướng trọn linh hồn và tâm thần về Chúa, nàng không để ý đến người chung quanh, cũng không cần biết người chung quanh nghĩ gì về mình. Chính vì thế mà An-ne đã bị thầy tế lễ Hê-li hiểu lầm, tưởng nàng say rượu nên nói lảm nhảm một mình.
Chúng ta cùng xem phần Kinh Thánh dưới đây để thấy rõ nỗi lòng của An-ne:
“Sau khi người ta đã ăn uống tại Si-lô rồi, An-ne bèn đứng dậy, lúc ấy Hê-li, thầy tế lễ, đương ngồi trên một cái ghế gần bên cửa của đền Ðức Giê-hô-va. An-ne lấy làm sầu khổ trong lòng, vừa cầu khẩn Ðức Giê-hô-va vừa tuôn tràn giọt lệ. Nàng hứa nguyện rằng: Ôi, Ðức Giê-hô-va của vạn quân, nếu Ngài đoái xem nỗi sầu khổ của con đòi Ngài, nhớ lại nó chẳng quên, và ban cho con đòi Ngài một đứa trai, thì tôi sẽ phú dâng nó trọn đời cho Ðức Giê-hô-va, và dao cạo sẽ chẳng đưa ngang qua đầu nó.
“Vì nàng cầu nguyện lâu dài trước mặt Ðức Giê-hô-va, Hê-li chăm xem miệng nàng. Vả An-ne nói trong lòng, chỉ nhóp nhép miệng mà thôi, không có ai nghe tiếng nàng, nên Hê-li tưởng nàng say, bèn hỏi rằng: chừng nào nàng mới hết say? Hãy đi giã rượu đi.” An-ne thưa rằng: Chẳng phải vậy chúa, tôi vốn một đàn bà có lòng buồn bực, chẳng uống rượu hay là vật gì uống say; nhưng tôi giải bày lòng tôi ra trước mặt Ðức Giê-hô-va. Chớ tưởng con đòi của ông là một người đàn bà gian ác; vì nỗi đau đớn và ưu phiền quá độ của tôi bắt tôi phải nói đến bây giờ” (I Sa-mu-ên 1:9-16).
Khi bị thầy tế lễ hiểu lầm, cho mình là người say, An-ne đã thành thật thưa rằng nàng đang giải bày niềm đau của mình với Chúa; vì quá đau buồn nàng không thể cầu nguyện thành lời chứ không phải là nàng say rượu. Nghe vậy thầy tế lễ Hê-li có vẻ ân hận nên dù không biết An-ne đã cầu xin Chúa điều gì, ông nói: “Hãy đi bình an, nguyện Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nhậm lời nàng đã cầu xin cùng Ngài.” 
Thưa quý vị, bà An-ne là một phụ nữ có nhiều điều cao đẹp cho chúng ta học hỏi nhưng vì giới hạn của Trang Phụ Nữ, chúng tôi xin tạm ngưng bài nói về bà An-ne tại đây. Mời quý vị đón đọc trong Thông Công số tới.


© 2013 iPRESS. All rights resevered. Designed by Templateism